Nhớ ơn thầy cô, đó là đạo lí phổ biến lâu đời theo tinh thần
tôn sư trọng đạo. Nếu thầy cô của chúng ta còn là một vị có những đóng góp xuất
sắc cho xã hội, cho đất nước thì lại càng là niềm hãnh diện và là tấm gương sáng
cho các môn sinh.
Trên thực tế, trong tâm khảm của bất cứ ai đã từng cắp sách
tới trường đều lưu giữ hình ảnh và những tâm tình kính trọng, biết ơn cách đặc
biệt đối với một số thầy cô của mình. Anh em đồng môn chúng tôi đã cùng nhau học
tập dưới mái trường nhỏ bé thuở xưa ở miệt Phú Nhuận cũng thường nhắc nhở nhau
về một trong số những vị thầy như thế.
Khi không có mặt thầy, môn sinh chúng tôi thường gọi thầy là
thầy Kiệm. Khi có mặt thầy, chúng tôi gọi thầy là cha, bởi vì thầy là một linh
mục Công Giáo. Tên đầy đủ của thầy là An-tôn
Trần Văn Kiệm. Năm nay thầy đã 87 tuổi hạc, tức là thuộc bậc ‘đại phúc’,
chỉ 3 năm nữa thầy sẽ thành tiên (thất thập cổ lai hi, bát thập như đại phúc, cửu
thập như nhân tiên).
Thầy Kiệm sinh năm 1920 tại làng Phát Diệm, huyện Kim Sơn, tỉnh
Ninh Bình.
Thiếu thời, học chữ quốc ngữ ở trường xứ đạo và học chữ Hán ở
nhà do thân phụ dậy. Thân phụ thầy Kiệm là học trò ông nghè Nguyễn Tư Giản
(1823-1890) (1).
Hết tiểu học, thầy Kiệm được tuyển chọn vào Tiểu chủng viện.
Thầy luôn chứng tỏ là một học sinh xuất sắc về đủ mọi môn: Toán, Lí, Hóa, Văn,
cổ ngữ, ngoại ngữ và cả Âm nhạc.
Năm 1940-41, đậu Tú tài Pháp tại Hà Nội.
Năm 1945-46, tốt nghiệp Thần học tại trường Thần học Thượng
Kiệm, Phát Diệm, rồi lãnh chức linh mục.
Năm 1947, thầy được cử đứng ra thành lập trường Trần Lục là
trường trung học đầu tiên và duy nhất tại huyện Kim Sơn lúc bấy giờ.
Từ 1950 tới 1955, nhờ một linh mục người Bỉ là ‘Cố’ Jacques
Houssa giới thiệu, thầy Kiệm nhận được học bổng du học Hoa Kì của Tổng giám mục
New York là Đức hồng y Francis Spellman. Đức hồng y gửi thầy Kiệm về làm phó xứ thứ ba của giáo xứ Blessed
Sacrament ở New Rochelle để tiện đi
học.
Vốn sẵn thông minh lại chăm chỉ học tập, ngay năm 1951 thầy
Kiệm đã lấy được Cử nhân Hóa học (BS) tại trường Iona.
Sau đó chuyển sang học Vật lí tại trường Fordham, được thụ
huấn trực tiếp với Dr. Victor F. Hess là vị giáo sư đoạt giải Nobel về công trình
khám phá ra tia vũ trụ (cosmic rays). Thầy Kiệm lấy Cao học Vật lí (MS) tại đây
năm 1953.
Vì sở thích riêng, thầy lại chuyển sang New
York University để
học về Quantum Physics.
Trong thời gian du học tại Hoa Kì, thầy Kiệm có duyên may trở
thành bạn vong niên với một nhân vật lịch sử, đó là cụ Ngô Đình Diệm, sau này cụ
sẽ trở thành Thủ tướng và Tổng thống nước Việt Nam Cộng Hòa (sẽ trở lại việc này).
Chính vì mối thâm giao với cụ Ngô, cho nên khi vừa nghe tin cụ được quốc trưởng
Bảo Đại mời về chấp chính lần thứ hai vào giữa năm 1954, thầy Kiệm cảm thấy hết
sức nôn nao. Thầy quyết định bỏ dở việc học đề hồi hương vì đất nước đang chuyển
mình mạnh mẽ. Đức hồng y F. Spellman rất qúy 2 ‘con cưng’ bảo lãnh của mình là
thầy Kiệm và Lm. Nguyễn Đức Qúy cho nên Đức hồng y đã cho tổ chức bữa tiệc tiễn
chân thầy Kiệm. Khách mời có Đại sứ Trần Văn Chương và Lm. Nguyễn Đức Qúy (sau
này, khi lấy xong tiến sĩ Sinh học (PhD), Tiến sĩ Nguyễn Đức Qúy hồi hương phục
vụ tại Viện Pasteur Sài Gòn. Cho tới gần đây, ông vẫn còn là nhân viên kì cựu
trong Hội Chống Ung thư tại New Jersey).
Vừa về tới Việt Nam,
thầy Kiệm nhận giảng dậy tại Đại học Khoa học Sài Gòn niên khóa 1955-56.
Từ 1956 tới 1973, thầy làm giáo sư Tiểu chủng viện Phát Diệm,
Phú Nhuận. Trong khoảng thời gian này, thầy Kiệm đồng sáng lập và kiêm nhiệm chức
hiệu trưởng trường Trung học Bác Ái ở thị xã Kiến Hòa (Bến Tre). Thầy cũng là
tuyên úy cho các tín hữu Hoa Kì tùng sự ở Việt Nam, nhóm họp mỗi Chủ nhật tại
nhà thờ Mai Khôi, đường Tú Xương, Sài Gòn.
Sau những năm dài làm công tác giáo dục, thầy Kiệm nhận đi
phụ trách một họ đạo vùng Bà Rịa. Nhưng rồi biến cố tháng 4 năm 1975 đã đưa đẩy
hàng trăm ngàn người Việt trôi dạt khắp nơi. Trước cảnh lạ nước lạ cái của đa số
đồng bào khi mới đặt chân tới Hoa Kì, thầy Kiệm ra tay tích cực giúp đỡ đồng hương
tị nạn suốt từ năm 1975 tới 1985. Khi tiến trình nhập cư đã ổn định, thầy Kiệm đi
trông coi một cộng đoàn giáo dân gốc Việt Nam tại Seadrift thuộc vùng bờ biển Đông
Nam tiểu bang Texas mãi cho tới nay, vì tuổi già sức yếu, thầy mới chịu về nghỉ
hưu tại tiểu bang Georgia.
Cuộc đời phục vụ đạo, phục vụ văn hóa giáo dục của thầy Kiệm
dài tới 60 năm, tính từ ngày thầy lãnh chức linh mục cho đến nay (2007). Và thầy
đã phục vụ xuất sắc bởi vì thầy vừa có tài vừa có tấm lòng, vừa chăm chỉ miệt mài
lại vừa sẵn sàng từ chối danh vọng của cải trần gian. Chính Thầy đã kể lại thầy
có 2 cơ hội ‘tiến thân’. Cơ hội thứ nhất: ngay khi cụ Diệm chưa trở về chấp chính,
ông Ngô Đình Nhu đã gửi thư sang Hoa Kì kêu gọi thầy về giúp chính phủ tương
lai. Cơ hội thứ hai đem tới cho thầy tiền bạc và những mời gọi khác là hồi đó
cuộc đại chiến thứ hai mới chấm dứt không lâu, các nước Âu châu đang gấp rút tái
thiết xứ sở, họ cần rất nhiều sinh viên tốt nghiệp bất luận là ngành nghề nào.
Vừa lúc ấy thầy Kiệm tốt nghiệp tại Hoa kì, biết tiếng Đức, lại có tên là Van
Kiem khiến người Đức tưởng đây là người Đức gốc Hòa Lan, cho nên Bộ Ngoại giao Đức
đã gửi cho thầy một lá thư mời thầy về phục vụ cho quê hương (Vaterland)! Nhưng
thầy Kiệm đã từ chối cả hai cơ hội kể trên: ‘Cố nhiên tôi phải từ chối cả hai lời
mời từ người Đức cũng như từ ông Nhu. Với bào đệ ông Diệm, tôi xác định mình đã
làm linh mục thì trọn đời sẽ một lòng giảng đạo không làm chính trị, nhưng cố
nhiên tôi sẽ làm thần dân tận tụy phục vụ tổ quốc’ (Xin xem L.m. An-tôn Trần Văn
Kiệm. Có phải Hoa thịnh đốn đã đưa ông Diệm về làm Tổng thống Đệ nhất Cộng hòa
Việt Nam?
Dunglac.net).
Sau đây chúng tôi đúc kết lại trong một số điểm để chứng
minh thầy Kiệm đã thể hiện xuất sắc lời thầy xác định ‘một lòng giảng đạo’ và
‘làm thần dân tận tụy phục vụ tổ quốc’. Ngoài ra, thầy Kiệm còn lưu giữ mãi tình
bạn hết sức cảm động đối với ông bạn vong niên của thầy là cố Tổng thống Ngô Đình
Diệm mặc dù Tổng thống đã khuất bóng đến nay đã trên 40 chục năm.
MỘT LÒNG GIẢNG ĐẠO
Bất cứ vị linh mục Công Giáo nào cũng phải khấn hứa long trọng
3 lời khấn trong ngày lãnh chức linh mục, trong đó có lời khấn hứa vâng lời vị
giám mục bản quyền. Tùy nhu cầu, vị giám mục có thể giao cho các linh mục những
nhiệm vụ khác nhau. Song, dù được giao phó nhiệm vụ nào, các linh mục cũng tin
tưởng rằng mình đang làm việc phung sự Thiên Chúa, đang làm việc cho Giáo Hội.
Mục vụ: Là linh mục,
thầy Kiệm đã 5 lần được giao phó làm nhiệm vụ mục vụ ở các xứ đạo và một thời
gian dài làm giáo sư Tiểu chủng viện: Vừa thụ phong linh mục năm 1947, thầy được
cử về phụ trách giáo xứ Hướng Đạo, Giáo phận Phát Diệm (1947). Trong những năm
du học tại Hoa Kì 1950-55, thầy Kiệm làm phó xứ Blessed Sacrament tại New
Rochelle, Tổng giáo phận New
York. Năm 1973-1975, trông coi một họ đạo gần thị xã
Bà Rịa. 1975-1985, phụ trách giúp đồng hương tị nạn. Từ 1985 thầy quản nhiệm cộng
đoàn Công Giáo Việt Nam
tại Seadrif, Texas
cho tới ngày về nghỉ hưu. Ngoài ra thầy còn làm giáo sư Tiểu chủng viện Phát Diệm,
Phú Nhuận một thời gian dài từ 1955 tới 1967.
Hết Lòng vì Tin Mừng Chúa
Giêsu Kitô: Tại Hoa Kì, ngoài việc chu toàn nhiệm vụ thông thường của một
linh mục, thầy Kiệm vẫn thường xuyên viết bài cho các tờ Thời Điểm Công Giáo
(Garden Grove), Thao Thức (New Orleans), Chính Nghĩa (San Jose). Nhưng đặc biệt
thầy còn là một trong số không nhiều linh mục Việt Nam say mê nghiên cứu và phiên
dịch Thánh Kinh, nhất là 4 sách Tân Ước. Vốn có khả năng đặc biệt về Hán, Nôm và
một số sinh ngữ cũng như cổ ngữ Tây phương, thầy Kiệm đã miệt mài phiên dịch và
chú giải Thánh Kinh. Năm 1993, đã hoàn thành bộ Thánh Kinh Tân Ước, gồm phần
phiên dịch và phần chú giải hết sức công phu (Thánh Kinh Tân Ước của Lm.Trần Văn
Kiệm là bộ Thánh Kinh đầu tiên tiếng Việt đã được Lm. Trần Công Nghị đưa vào mạng
lưới điện toán toàn cầu ngay từ đầu năm 1996 http://vietcatholic.net/kiem/ và cũng đã
giúp ấn loát và phát hành vào năm 1993). Năm 1995, thầy cho ra đời cuốn Con Đường
Cứu Chuộc, rồi cuốn Chuyện Các Tông Đồ.
Xin đan cử cách phiên dịch Đoạn I Tin Mừng thánh Gioan của thầy Kiệm:
‘1 Từ thuở thái sơ đã có Đạo, Đạo đồng tại với Thiên Chúa, và Đạo chính là
Thiên Chúa. 2 Ngài cùng với Thiên Chúa đồng tại từ thái sơ. 3 Do Ngài vạn vật
được tạo thành, và không do Ngài thì không vật thụ tạo nào thành hình được. 4
Tại nơi Ngài phát ra sự sống, và sự sống ấy là ánh sáng của nhân loại, 5 thứ
ánh sáng phát quang trong bóng tối, thứ ánh sáng bóng tối không thể áp đảo’.
Dùng cách dịch thuật đoạn Tin Mừng mang ý nghĩa quan trọng vào
bậc nhất trên đây để làm thí dụ, người ta sẽ hiểu tại sao báo Thời Điểm Công Giáo
đã nhận định về cuốn Phiên Dịch và Diễn Nghĩa Thánh Kinh của thầy Kiệm: ‘Có người nhận định rằng bản dịch này dùng nhiều
chữ Hán, nhưng thiết tưởng đây là những chữ Hán chính xác để diễn tả trọn vẹn ý
nghĩa của nguyên ngữ dùng trong Thánh Kinh, một số từ ngữ hơi lạ tai (vì không được
dùng trong các bản dịch trước đây) nhưng được dùng một cách hợp lí, nếu chúng
ta chấp nhận, dùng dần sẽ quen’ (Thời Điểm Công Giáo. Lời Nói Đầu. Số 32. Tháng
4.1995).
Mặc dù không đủ tư cách nhận xét về vấn đề phiên dịch Thánh
Kinh, nhưng khi thử đọc lại cách phiên dịch đoạn trên đây do một vài dịch giả
khác, chúng tôi có cảm tưởng cách dịch của thầy Kiệm vừa dễ hiểu vừa trang trọng
hơn. Đặc biệt, chúng tôi tự nhiên cảm thấy rất thú vị bởi vì lần đầu tiên được đọc
một bản dịch bằng chữ quốc ngữ dịch chữ Logos (The Word) là Đạo (hầu hết các dịch
giả Viện Nam dịch
là Lời; Tư Cao Thánh Kinh Học Hội (1968) dịch là Thánh Ngôn). Thầy Kiệm cho biết
thầy dịch Logos là Đạo theo cách dịch của Hương Cảng Thánh Kinh Học Hội (1989)
với ý là thánh sử Gioan hiểu Chúa Giêsu là Trí Óc Sáng Suốt của Thiên Chúa đã
xuống thế làm người, làm Ánh Sáng soi cho muôn dân.
Thiển nghĩ, dịch ‘Từ thuở thái sơ đã có Đạo’ xem ra rất gần
với Thái cực đồ thuyết (tức lí thuyết phát sinh vũ trụ) của Kinh Dịch: ‘Thị cố
Dịch hữu Thái cực, thị sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh tứ tượng, tứ tượng sinh
bát quái, bát quái định cát hung, cát hung sinh đại nghiệp’ (Hệ Từ thượng).
Và có lẽ nội dung chữ Đạo hết sức quan trọng này trong câu dịch
‘và Đạo chính là Thiên Chúa’ cũng tương tự nội dung của chữ Đạo trong lời phát
biểu của các Giám mục Việt Nam nhân dịp mở ra Thượng Hội Đồng Giám Mục Á Châu tại
Vatican năm 1998: ‘Có hai đặc điểm chính của Triết học và Tôn giáo Á châu, đó là
trước hết, người ta có một cái nhìn tổng hợp, hài hòa về mọi thực tại, kể cả Thực
Tại Tối Hậu, mà người ta gọi là Trời, Thiên, Đại ngã, Brahman hay Đạo…. Đây là
một cái nhìn hài hòa, kết hợp Âm Dương, nội ngoại, siêu việt - nội tại…’ (Định
Hướng số 16. Trang 86).
Như thế cho phép nhận xét thầy Kiệm muốn theo gương vị tiền
bối kiệt xuất là Cụ Sáu Trần Lục của Phát Diệm quê hương thầy và thầy cũng có cùng
một chí hướng với các vị linh mục giáo sư nổi tiếng khác như Gs. Bửu Dưỡng, Gs.
Sảng Đình Nguyễn Văn Thích, Gs. Lê Văn Lý, Gs. Kim Định, Gs. Thanh Lãng, Gs. Hoành
Sơn Hoàng Sĩ Qúy, Gs. Vũ Đình Trác, Gs. Thiện Cẩm, Gs. Vũ Kim Chính…trong việc
tìm về với những giá trị của Việt tộc, của Á châu, nghiên cứu hoặc là đối chiếu
tư tưởng Kitô giáo với những tư tưởng đặc thù của Á châu và phát huy, hội nhập
làm cho đời sống tinh thần của chúng ta thêm sung mãn, hài hòa hơn.
TẬN TỤY PHỤC VỤ TỔ QUỐC
Nói chung, bất cứ người công dân bình thường nào làm tròn
nhiệm vụ ở vị trí của mình đã có thể gọi được là tận tụy phục vụ tổ quốc, huống
chi người công dân đó ở vị trí của một giáo sư, một hiệu trưởng và một tu sĩ như
thầy Kiệm thì những nỗ lực phục vụ tổ quốc còn hữu hiệu hơn, có ảnh hưởng sâu rộng
hơn. Ngoài những cống hiến đáng kể ấy, thầy Kiệm còn phục vụ tổ quốc bằng công
trình nghiên cứu chữ Nôm hiếm hoi và rất đáng qúy.

Vì muốn giúp cho hậu sinh có cái chìa khoá mở vào kho tàng Hán
Nôm còn nằm im lìm trong các thư viện Hà Nội, Vatican, Paris, Macao, London…thầy
Kiệm biên soạn cuốn Giúp Đọc Nôm Và Hán Việt
(Giúp Đọc NVHV). Sách Giúp Đọc NVHV phát hành vào các năm 1989, 1997 và 1999, mỗi
lần có bổ cứu thêm; với các chữ Nôm, Nho tự viết bằng tay. Mãi tới năm 2002, thầy
Kiệm mới liên lạc được với hội Vietnamese Nôm Preservation Foundation do Gs.
John Balaban thuộc Đại học North Carolina điều khiển và
hội này nhờ Gs. Ngô Thanh Nhàn thuộc Đại học New York để cùng với các nhóm chuyên
viên chữ Nôm khác in lại cuốn sách của thầy Kiệm với cách viết các chữ Nôm, Nho
bằng điện toán.
Hiện nay cuốn Giúp Đọc NVHV đã được hiệu đính và tái bản tới
lần thứ tư tại Việt Nam,
do nhà xuất bản Đà Nẵng và Hội Bảo Tồn Di Sản Chữ Nôm tại Florida,
Hoa Kì cùng thực hiện.
Gần đây, thầy Kiệm vừa mới cho xuất bản tại Hoa Kì toàn bộ công
trình biên khảo dưới nhan đề Từ Điển Văn Học
Việt Nam
(2007) gồm 2 Phần: Phần Thứ Nhất 1 cuốn, 254 trang; Phần Thứ Nhì 2 cuốn: cuốn
1, trang 255- 808; cuốn 2, trang 809-1375.
Phần I: Giúp tìm âm một
từ Hán Việt hay một chữ Nôm chưa biết âm: Gồm bảng 1 kê ra những bộ gốc; bảng 2 gồm những bộ gốc thường gặp, viết
trong các ô. Mỗi bộ có ghi số nét của bộ ở phía trước. Bên dưới mỗi bộ là các
chữ viết cùng bộ xếp theo thứ tự các nét còn lại của chữ, tương tự cách sắp xếp
của các tự điển Trung Hoa. Nhưng sách của thầy Kiệm tiện lợi hơn cho người biết
chữ quốc ngữ vì thầy xếp các chữ theo thứ tự ABC.
Phần II (2 cuốn) giúp tìm nghĩa
những chữ Nôm và Hán Việt đã biết âm (trang 255 tới 1375), kèm theo là các
thí dụ.
Ngoài ra, công trình của thầy Kiệm còn cống hiến cho độc giả
nhiều điều hữu ích khác như: Dậy cách thực tập viết sao cho ‘đúng cựa’ và thực
tập cách tìm được âm của một chữ; cách đọc chữ Trung Hoa phanh âm tức là sau mỗi
từ Hán Việt sẽ ghi cách đọc theo giọng Bắc Kinh và Đài Loan; cách phân biệt các
dấu bổng trầm trong tiếng Việt và tiếng Trung Hoa. Thêm vào đó, bộ Từ điển còn giúp
hiểu đúng nghĩa của những chữ đồng âm dị nghĩa. Thí dụ chữ kì có 32
nghĩa trong chữ Hán và có 4 nghĩa trong chữ Nôm. Chữ tư có 25 nghĩa trong chữ Hán và có 1 nghĩa trong chữ Nôm. Lấy một
thí dụ cụ thể: Chữ ‘đồng’ trong ‘tơ đồng’ (Đoạn Trường Tân Thanh của cụ Nguyễn Du) viết với bộ mộc cho nên không thể hiểu là đồng kim loại,
rau tần ô, con nít, ống rỗng ruột, con người, đồng ruộng, đồng bạc mà phải hiếu
là cây ngô đồng (tơ đồng là dây lụa ở cây
đàn làm bằng gỗ cây ngô đồng…).
Theo Lời Nói Đầu trong cuốn thứ nhất bộ Từ Điển Văn Học (2007), thì hi vọng thầy Kiệm sẽ
còn cho ra mắt phần giới thiệu các tài liệu Hán Nôm có giá trị với những giải
thích điển cố và những từ ngữ thông dụng vào các thề lỉ 18, 19 tức là ‘thời đại
chữ Nôm’. Lại có thêm phần giới thiệu các nhân vật lịch sử, nhất là của Việt Nam,
các nhà văn Trung Hoa và Việt Nam
sáng tác bằng quốc ngữ trong thế kỉ 20. Sau hết là phần trình bầy nếp sống và
triết lí bình dân của người Việt Nam
dưới hình thức các phương ngôn, ngạn ngữ.
Với công trình biên soạn cuốn Giúp Đọc Nôm Và Hán Việt và cuốn
Từ Điển Văn Học Việt độc đáo này, thầy Kiệm đã để lại cho hậu thế những tác phẩm
văn hóa thuộc loại thủ bản, mang lại ích lợi to lớn về học thuật. Sau những giờ
bận rộn với việc mục vụ, một linh mục có quyền nghỉ ngơi để lấy lại sức khoẻ,
riêng thầy Kiệm một mình rút vào văn phòng và âm thầm miệt mài nghiên cứu để soạn
sách. Nếu không phải là một người vừa có tài vừa phát tâm tận tụy phục vụ tổ quốc
như thầy Kiệm, sẽ không đủ sức để hoàn thành một tác phẩm hiếm qúy như thế.
Hiện nay, mặc dù thầy Kiệm đã lên bậc đại lão, nhưng thầy vẫn
còn đang dịch ra tiếng Anh những Kinh chuyện hiếm qúy của Việt tộc trong bộ Lĩnh
Nam Chích Quái. Công trình này sẽ được Lm.Trần Cao Tường và một số họa sĩ thực
hiện và phổ biến.
VỚI CỐ TỔNG THỐNG NGÔ ĐÌNH DIỆM, MỘT TÌNH BẠN ĐẦY CẢM ĐỘNG
Ngày 01 tháng 11 năm 1963, cuộc đảo chính do một nhóm tướng
lãnh quân đội VNCH
cầm đầu nổ ra. Ngày hôm sau, họ giết chết Tổng thống Ngô Đình
Diệm và ông cố vấn Ngô Đình Nhu. Ngay sau đó bọn học sinh chúng tôi để ý thấy
thầy Kiệm thay đổi rất nhiều. Dường như thầy đang trải qua một cơn chấn động lớn,
vẻ mặt bơ phờ, xa vắng, chua cay. Bộ tóc của thầy vốn hơi quăn nay có vẻ biếng
chải nên càng quăn thêm. Cúc cổ áo dài trắng của thầy thường không còn được cài
kín, vẻ như bất cần đời! Ít lâu sau thầy mới chịu hé lộ một chút cho bọn học
sinh chúng tôi biết rằng thầy lấy làm tiếc vì đã từng ủng hộ ứng cử viên tổng
thống J. F. Kennedy mỗi khi có dịp tiếp xúc với các nhân viên Hoa Kì là tín hữu
Công Giáo làm việc tại Sài Gòn. Thầy cho rằng Tổng thống Kennedy có trách nhiệm
trong vụ lật đổ và thảm sát người bạn vong niên của thầy là Tổng thống Ngô Đình
Diệm. Và năm tháng cứ trôi đi theo dòng lịch sử. Mãi mới gần đây trên Văn Nghệ
Tiền Phong và trên Dunglac.net, độc giả khắp nơi mới được hiểu rõ ngọn ngành câu
chuyện về tình bạn vong niên hết sức cảm động giữa thầy Kiệm và cố Tổng thống
Ngô Đình Diệm qua bài viết của thầy nhan đề: Có Phải Hoa Thịnh Đốn Đã Đưa Ông
Diệm Về Làm Tổng Thống Đệ Nhất Cộng Hòa Việt Nam ?
Thầy Kiệm ví cụ Ngô như ‘một ngôi sao sáng, còn thầy chỉ là
một hòn đá, ‘một cục thiên thạch’, nhưng hai vị có duyên gặp nhau trên xứ người,
rồi trở thành đôi bạn tri kỉ vong niên.
Cụ Ngô sinh năm 1901, thầy Kiệm sinh 1920, cách nhau gần hai
con Giáp, hai vị có duyên gặp nhau vì những lí do may mắn ngẫu nhiên: Cả hai đều
tới Hoa Kì kể như đồng thời, thầy Kiệm tới trước một chút (1950), cụ Ngô tới
sau (1951). Thầy Kiệm được gửi đi du học còn cụ Ngô là một chính khách sáng giá
tới Hoa Kì để nghiên cứu tại chỗ chính thể và chính trường Hoa Kì, đồng thời đi
tìm kiếm nhân tài trong số các sinh viên Việt Nam đang du học tại đây. Thêm vào,
cả hai cùng được sự bảo trợ qúy báu của Đức hồng y F. Spellman, Tổng giám mục
New York và họ sống không xa nhau, cách khoảng 60 miles: thầy Kiệm ở nhà thờ
Blessed Sacrament, New Rochelle (sát bờ biển Đông Bắc thành phố New York); cụ
Ngô lưu trú trong tu viện Maryknoll, Lakewood (trung bộ New Jersey). Thời đó, có
rất ít người Việt sống ở Hoa Kì, đa số họ là những sinh viên du học, cho nên họ
có ‘nhu cầu’ tìm gặp nhau, nhất là trong những dịp lễ tết và dễ dàng trở nên bạn
bè. Riêng cụ Ngô vốn là một người Công Giáo thuần thành sẽ không mất nhiều thời
giờ để tìm hiểu và kết bạn với một linh mục tuổi trẻ tài cao.
Sang năm 1951, thầy Kiệm nhận được điện tín từ Âu châu yêu cầu
ra phi trường Idlewild để đón Giám mục
Ngô Đình Thục (bạn đồng song của Đức hồng y F. Spellman) và bào đệ Ngô Đình Diệm.
Thầy Kiệm cho đây là một vinh dự được nghênh đón 2 nhân vật, một đạo một đời, có
tiếng tăm lẫy lừng thời ấy cho nên thầy vội vàng chuẩn bị xe và đóng bộ tươm tất
nhất để ra phi trường. Bụng bảo dạ, thầy Kiệm tiên đoán 2 điều: một là Đức hồng
y F. Spellman sẽ niềm nở tiếp đón Giám mục Ngô Đình Thục là bạn đồng song với
Ngài hồi cả hai tòng học tại Roma; hai là vì cùng được Đức hồng y bảo trợ cho nên
thầy Kiệm và cụ Ngô sẽ có nhiều dịp gặp gỡ và sống bên nhau. Hai tiên đoán của
thầy Kiệm đều đúng.
Thật vậy, trong hơn hai năm cụ Diệm sống tại Hoa Kì, thầy Kiệm
đã có nhiều dịp gặp gỡ, sống chung, giúp đỡ và làm bạn tâm tình với cụ.
Thầy Kiệm kể lại, mỗi lần cụ Diệm tới Manhattan
tiếp chính khách tại khách sạn, cụ thường nhờ thầy đưa đón. Có khi thầy Kiệm móc
tiền túi ra trả tiền khách sạn cho cụ vì biết cụ Diệm sống rất thanh bạch. Cụ
Diệm còn nhờ thầy Kiệm giúp cho cả những việc nhỏ khác. Trong số những sinh viên
bạn bè du học thời đó như các ông Huỳnh Văn Lang, Đỗ Vạng Lí, Bùi Công Văn, Bùi
Kiến Thành, Nguyễn Thái, Nguyễn Ngọc Linh, Nguyễn Văn Thơ, bà Nguyệt Minh, Nguyễn
Đình Hòa…(2) thì riêng ông Nguyễn Đình Hòa có thân phụ quen biết cụ Diệm, cho nên
khi ông Hòa lập gia đình, cụ Diệm nhờ thầy Kiệm đưa đi mua quà tặng cho đôi tân
hôn.
Một lần, vì muốn cho cụ Diệm được chút thay đổi thoải mái,
thầy Kiệm mời cụ tới ở chơi cuối tuần với thầy. Cụ Diệm nhận lời ngay. Song vì
thầy Kiệm sống chung với các linh mục giáo xứ không tiện tiếp đón khách riêng,
thầy đã ngỏ lời xin các nữ tu Ursuline giúp đỡ. Các nữ tu Ursuline là những vị
giàu lòng nhân ái và có học lực rất cao, đang điều hành ngôi trường College
of New Rochelle bề thế. Họ sẵn lòng
dành cho vị khách qúy của thầy Kiệm một căn phòng rộng rãi, khang trang, mời khách
ăn ở 2 ngày cuối tuần. Mỗi bữa ăn có một vị nữ tu, là giáo sư, ân cần phục thị
cụ Diệm và thầy Kiệm. Khi thầy Kiệm hỏi cụ có ngủ ngon giấc không thì cụ Diệm
thành thật nói: ‘Bầu khí rất thanh tĩnh, giường ngủ rất êm ái thơm tho, nhưng họ
cần gì mà phải thay chăn đệm mỗi tối, và khăn lau trong buồng tắm một ngày ba lần’!
Tình bạn giữa cụ Diệm và thầy Kiệm thân thiết đến nỗi hai vị
có thể đem nói với nhau những ý nghĩ thầm kín và có cả những cú ‘sửa lưng’vui
vui của một đàn anh đối với một đàn em. Trong giáo xứ, thầy Kiệm kết bạn với một
tín hữu người Trung Hoa. Thầy giới thiệu người tín hữu này với cụ Diệm. Không lâu
sau, người bạn Trung Hoa viết thiệp mời cụ Diệm và thầy Kiệm tới nhà dùng cơm.
Thiệp mời khách tới nhà vào ‘đệ lục nhật’. Lúc đó vốn Hán học của thầy Kiệm còn
giới hạn cho nên thầy thắc mắc tại sao người Công Giáo lại mời nhau dùng cơm vào
ngày thứ sáu phải kiêng thịt. Cụ Diệm vui vẻ giải thích cho thầy rằng ‘đệ lục
nhật’ của người Trung Hoa tức là ngày thứ bảy của ta. Có lần người ta hỏi quê
quán của thầy Kiệm, thầy nói thầy là người làng Phát Diệm, thì cụ Diệm húc nhẹ
cùi chỏ vào thầy rồi trả lời thay: ‘Cha Kiệm là người Phát Diễm đó’. Cụ nhắc
cho thầy tục lệ kị húy của người Việt mình, đồng thời chỉ cho thầy biết tuy là viết
một chữ Hán nhưng có thể đọc hai âm, vừa là Diệm vừa là Diễm.
Mặc dù học hành vất vả, nhưng cuối tuần thầy Kiệm vẫn dành
thời giờ để liên lạc với cụ Diệm. Vì biết cụ hết sức ưu tư trước tình hình chính
trị bế tắc, cho nên để giúp cho cụ được thư giãn đôi chút, thầy Kiệm đã mách
cho cụ một cái thú chơi nghệ thuật lịch lãm, đó là thú chụp hình. Bởi thầy Kiệm
vốn say mê môn chụp ảnh nghệ thuật. Thầy có đủ loại máy ảnh, lại được tự do xử
dụng phòng tối của trường học giáo xứ. Hơn nữa, tại Đại học Fordam, khi muốn phân
tích thành phần các thể chất, thầy Kiệm được các giáo sư dạy cho phương pháp dùng
điện thế rất cao để chụp quang phổ (spectrum). Khi cụ Diệm đồng ý, thầy Kiệm đưa
cụ đi mua máy ảnh, sách dậy chụp và rửa hình. Chuyện này khiến cho thầy Kiệm
sau này đã lấy làm ân hận. Vì thầy dẫn đưa cụ Diệm vào cái thú chụp hình và chơi
ảnh nghệ thuật cho nên khi cụ bị lật đổ, bọn phản loạn đã lục soát văn phòng của
cụ và phao tin cụ ‘chơi hình khỏa thân’. Kì thực cụ Diệm chỉ có những tờ báo
Photography chụp phong cảnh và người mẫu chứ không phải là loại báo ‘Playboy’.
Cũng vào giai đoạn này, khi có dịp thư thả tâm tình, thầy Kiệm
nhiều lần hỏi thẳng cụ Diệm nhận xét gì về nhân vật Hồ Chí Minh. Thời còn là
sinh viên Thần học tại Trường Lí Đoán Thượng Kiệm, Phát Diệm (tức trường Thần học
Phát Diệm), thầy Kiệm đã từng sống chung với Luật sư Trần Văn Chương và ông Ngô
Đình Nhu. Chính Đức giám mục Lê Hữu Từ đã tiếp nhận ông bà Luật sư Trần Văn Chương
và ông bà Ngô Đình Nhu về ẩn náu tại Khu An Toàn Phát Diệm hồi 1945. Ngài gửi bà
Chương và bà Nhu (con gái của ông bà Chương) tại tu viện Mến Thánh Giá Lưu Phương,
còn hai ông Chương và Nhu thì phải ăn mặc như một thầy tu và sống chung với các
sinh viên trường Thần học Thượng Kiệm. Lúc đó thầy Kiệm lấy làm lạ, sao cụ Diệm
không về Phát Diệm cùng với ông Nhu, hay là ông Hồ Chí Minh vẫn muốn giữ cụ Diệm
lại. Nay ở bên Hoa Kì, có dịp thuận tiện, thầy Kiệm lại đưa điều thắc mắc xưa
ra để hỏi cụ Diệm. Thầy muốn biết ông Hồ và cụ Diệm đã đối xử với nhau thế nào
và cụ Diệm nghĩ gì về ông Hồ. Nhưng thầy Kiệm chẳng được toại nguyện; thầy xác
nhận không một lần nào ông Diệm bình luận với thầy hay bất cứ ai về ông Hồ.
Đến giữa năm 1953, tình bạn giữa cụ Diệm và thầy Kiệm bước
sang giai đoạn mới: Khoảng trung tuần tháng 6 năm 1953, cụ Diệm gọi điện thoại
báo cho thầy Kiệm biết tin Quốc trưởng Bảo Đại mời cụ về nước chấp chính. Theo
thầy Kiệm nhận xét thì trước khi nổ ra trận Điện Biên Phủ (13.3.1954), dường như
quần chúng và ngay cả nhiều chính khách Hoa Kì biết rất ít về đất nước và con người Việt Nam.
Thậm chí có người còn hỏi thẳng thầy Kiệm nước Việt Nam
ở chỗ nào trên bản đồ thế giới và phụ nữ Việt Nam
đã biết mặc quần áo chưa?! Thầy Kiệm đem mối ưu tư này của mình giãi bầy cùng cụ
Diệm thì cụ trả lời: ‘Được Mĩ bật đèn xanh, không phản đối việc tôi quy cố hương
là đủ. Chắc rằng về nước nhà rồi, tôi sẽ còn cần họ tiếp sức mới hãn ngữ được đường
tiến của Mạc Tư Khoa, Bắc Kinh và Hà Nội. Như vậy là bõ công tôi sống hơn hai năm
ở Hoa Kì. Việc tôi trở về sẽ không do Hoa Thịnh Đốn quyết định, nhưng sẽ tùy
thuộc công cuộc Hoàng đế Bảo Đại dàn xếp với Champs- Élysées có hanh thông hay
chăng’. Và để trấn an thầy Kiệm cụ Diệm nói tiếp: ‘Sang Âu châu, gặp nhà vua rồi,
nhìn thấy tiền đồ sáng tỏ hơn, tôi sẽ từ bên đó đánh điện cho cha rõ, để cha thông
báo cho các anh chị em bên này yên lòng’.
Kế đó cụ Diệm rời tu viện Maryknoll, Lakewood, New Jersey để
về nhà ông bà Bùi Công Văn phía Đông Bắc Central Park, Manhattan. Buổi tiễn chân
cụ Diệm đi Âu châu có 5 người là ông bà Bùi Công Văn, Đỗ Vạng Lí, Bùi Kiến Thành
và thầy Kiệm. Chính bà Bùi Công Văn phát hiện cụ Diệm không thắt cà vạt cho nên
ông Bùi Kiến Thành (người thường biếu tiền cho cụ Diệm. Ông Thành là con cụ Bùi
Kiến Tín) vội chạy đi mua cà vạt cho cụ Diệm (3).
Ngay hôm sau, từ Paris,
cụ Diệm gửi cho thầy Kiệm điện tín nói: ‘Tout va bien’. Thế nhưng cuộc điều đình
với Pháp của Quốc trưởng Bảo Đại không đem lại kết quả, cho nên cụ Diệm đã gửi
thư cho thầy Kiệm cho biết cụ bỏ Pháp để sang tạm trú tại tu viện Saint André, Bruges,
nước Bỉ.
Thầy Kiệm cố ý mô tả hoàn cảnh và diễn tiến buổi tiễn chân cụ
Diệm rời Hoa Kì đi Âu châu đáp ứng lời kêu gọi lần thứ nhất của Quốc trưởng Bảo
Đại để chứng minh cho hậu thế: cụ Diệm về chấp chính không phải là do Hoa Thịnh
Đốn dàn dựng. (Điều này cũng được hồi kí của ông Bùi Diễm công minh xác nhận.
Xin xem Chú thích số 4).
Trận Điện Biên Phủ nổ ra ngày 13.3.1954 giữa quân Pháp và quân
CSVN. (Quân Pháp thua trận ngày 26.6 1954). Ngày 16.6.1954, Thủ tướng Bửu Lộc và
chính phủ từ chức. Quốc trưởng Bảo Đại ra sắc lệnh số 38/QT ủy cho cụ Diệm lập
chính phủ mới với toàn quyền dân sự và quân sự (5).
Chỉ trong một thời gian rất ngắn, Thủ tướng Ngô Đình Diệm đã
ổn định được miền Nam.
Ngày 23.10.1955, tổ chức trưng cầu dân ý phế bỏ Quốc trưởng Bảo Đại. Ngày 26.10.1955,
Thủ tướng Ngô Đình Diệm trở thành Tổng thống nước Việt Nam Cộng Hòa.
Đúng vào thời kì khai mở nền Cộng Hòa này, thầy Kiệm bỏ trường
New York University
để về nước.
Đây là lúc chứng thực mối tình bạn thắm thiết giữa cụ Diệm và
thầy Kiệm. Tục ngữ có câu: Giầu đổi bạn, sang đổi vợ. Cụ Diệm thì khác, nay đường
đường là một vị nguyên thủ quốc gia, cụ vẫn không quên người bạn trẻ hồi còn bôn
ba ở hải ngoại. Được tin thầy Kiệm đã về nước, cụ Diệm cho Bác sĩ Trần Kim Tuyến
tới Tiểu chủng viện Phát Diệm, Phú Nhuận, mời thầy vào Dinh Độc Lập. Tổng thống
chỉ thị đón thầy Kiệm vào cổng chính, mở cả 2 cánh cửa. Các gia nhân đứng đón
chào ngoài cổng đều mặc quốc phục, họ đưa thầy lên lầu phía trái, nơi Tổng thống
cũng bận quốc phục đang ngồi. Nghi lễ đón bạn của Tổng thống bề ngoài xem ra rất
trang trọng theo cổ tục, nhưng câu chuyện hàn huyên riêng tư giữa hai vị vẫn hoàn
toàn thân mật không chút xã giao, khách sáo. Thầy Kiệm đã dám hỏi Tổng thống những
câu hỏi hết sức riêng tư và nhậy cảm. Chẳng hạn như thầy hỏi Tổng thống tại sao
truất phế Quốc trưởng Bảo Đại, tại sao ‘giận’ Đức cha Lê Hữu Từ. Tổng thống trả
lời: ‘Vì chính nhà vua muốn truất phế tôi sau khi tôi dẹp yên bọn theo Pháp phá
hoại quốc gia và thành lập xong một chính phủ có đầy đủ sức hoạt động. Té ra nhà
vua đã lợi dụng tôi như một con cờ thí nhận việc dọn đường phục bích mà thôi.
Trước sau Hoàng thượng vẫn nuôi mộng một ngày sẽ trở lại Huế ngồi lên ngai cũ các
vua Nguyễn. Tôi đã hứa khi được Hoàng đế mời về chấp chính thì mình sẽ vâng
nghe các Thánh chỉ sáng suốt của Ngài. Nhưng Thánh chỉ đòi tôi rút lui vào lúc
quốc sự còn ngổn ngang, thì nhất định là thiếu sáng suốt, làm sao tôi có thể phụng
mệnh Thánh chỉ được’. Trả lời câu hỏi thứ hai của thầy Kiệm, Tổng thống nói: ‘Tôi
đâu dám giận Đức Cha? Chỉ có Đức Cha giận tôi mà thôi. Khi tôi mời Ngài tránh nạn
vào Nam, Ngài đã
không chịu. Cha còn nhớ chăng? Cuối năm 1952, tôi có nhờ Cha biên thư cho Ngài
mà căn dặn chấm dứt chương trình xây trường Louis Pasteur ở Hà Nội, để dùng tiền
mua đất xây nhà ở Sài Gòn phòng biến. Ngài đã không nghe khiến cho địa phận Phát
Diệm bây giờ lâm vào cảnh cơ cực ở vũng lầy Phú Nhuận. Tới giai đoạn Hiệp định
Genève, tôi hết sức hô hào dân lành bỏ Bắc vào Nam, thì Ngài lại đòi tôi làm một
việc mộng tưởng đầy máu xương, là giúp Ngài cố thủ tại Phát Diệm! Cha ơi! Tôi rất
đau khổ vì mất một ông bạn cố tri, từng là ân nhân của tôi và cùng tôi xuất thân
từ Quảng Trị!’
Thế rồi từ đó, trong suốt thời Đệ Nhất Cộng Hòa, thầy Kiệm đã
rút lui vào hậu trường để ‘phục vụ Tổng thống Diệm với tư cách quan sát viên miễn
phí’, bởi vì thầy ý thức rõ rệt những chuyện ‘đượm nặng mùi chính trị đảng phái,
một linh mục như tôi cần tránh xa’. Mặc dù đã cố gắng thu mình vào hậu trường
chính trị, nhưng với vai trò ‘quan sát viên’ tự nguyện cho Tổng thống, thầy vẫn
có những dịp gặp gỡ Tổng thống hoặc là như một người bạn tâm tình hoặc là để tư
vấn những chuyện có liên quan tới tôn giáo. Chẳng hạn như thầy Kiệm đã được Tổng
thống mời tham dự cuộc họp vào ngày 15 tháng 8 năm 1963 cùng với một số chức sắc
tôn giáo để bàn về chính sách của Hoa Kì và Vatican giữa lúc dầu sôi lửa bỏng.
Nhưng thầy Kiệm, vốn chỉ là một nhà tu hành, không có phép mầu nào, không thể
‘hô phong hoán vũ’, đành bất lực nhìn người bạn thân thiết của mình tứ bề thọ địch
rồi cuối cùng bị sát hại thảm thương.
Ngô Tổng thống, người bạn vong niên của thầy Kiệm đã ra người
thiên cổ cách nay 44 năm, nhưng thầy Kiệm vẫn ôm mãi trong lòng tình bạn thắm
thiết chân thành. Thầy lấy làm đau lòng vì cho rằng Ngô Tổng thống là người thành
tâm yêu nước yêu dân, vậy ‘mà bình sinh gặp rất nhiều hạng người thuộc hắc đạo đã
không biết nhận xét chân tướng của ông, và công trình xây dựng của ông, lại còn
vu khống cho ông đủ mọi thứ tội ác, sau cùng đã giết ông một cách dã man’, mặc
dù Tổng thống đã chịu đầu hàng để tránh cho dân và quân đội khỏi lâm cảnh chém
giết lẫn nhau.
Nỗi đau của thầy Kiệm còn nhức nhối không nguôi vì thầy thấy
tại hải ngoại cũng như trong nước, nhiều người cầm bút vẫn viết về Tổng thống một
cách bất công. Thư viện khắp nơi chứa đầy những tài liệu hoàn toàn bất lợi cho
Tổng thống. Tuy nhiên, bóng đêm không mãi mãi ngự trị. Trời cũng như người không
mãi mãi phụ kẻ công chính. Tới nay, điểm lại, càng ngày càng có nhiều tác giả là
những nhà chính trị, sử gia, nhà văn, nhà giáo, nhà báo, thẩm phán, luật sư, quân
nhân....đã công khai nói lên sự thật, mạnh dạn làm chứng cho lẽ phải, rằng: Tổng
thống Ngô Đình Diệm là một nhà ái quốc, công nhiều tội ít (6).
Thế cho nên dù không hề có tham vọng viết lịch sử như các bậc
thức giả kể trên, nhưng thầy Kiệm phải cầm bút như một thôi thúc của tình bạn
chân thành đối với Ngô Tổng thống để viết bài Có Phải Hoa Thịnh Đốn Đã Đưa Ông
Diệm Về Làm Tổng Thống Đệ Nhất Cộng Hòa Việt Nam? Mục đích làm sáng tỏ việc Cụ
Ngô về nước chấp chánh không do người Mĩ dàn dựng. Chỉ sau khi cụ Ngô đã ổn định
được miền Nam, người Mĩ mới lộ liễu nhúng tay vào, rồi tìm cách lèo lái… và cuối
cùng chấp thuận kế hoạch tai hại ‘thay ngựa giữa đường’! Bài viết này như một dấu
ấn cuối cùng về tình bạn thắm thiết đầy cảm động giữa thầy Kiệm và cố Tổng thống
Ngô Đình Diệm.
Thời gian như bóng câu vút qua song. Trong khi tìm tài liệu để
viết về thầy Kiệm kính yêu, chúng tôi được xem một bức hình của thầy chụp gần đây,
bất giác cảm thấy bùi ngùi, nhớ lại hình dáng thầy vào những năm 60 tinh anh hoạt
bát, mà nay đã gần cửu thập. Rồi lại liên tưởng đến‘những người muôn năm cũ’! Ôi
mái trường xưa, các thầy, và bạn bè mến yêu, ai còn ai mất.
Sống trên cõi đời, mỗi người có một phận số khác nhau. Tổng
thống Ngô Đình Diệm cũng vậy, thầy Kiệm cũng vậy, ai ai cũng vậy. Khi xuôi tay
nhắm mắt, tất cả những thứ người ta muốn chiếm hữu suốt cả cuộc đời đều phải bỏ
lại, chỉ những gì tốt đẹp và hữu ích người ta đã cho đi, đã cống hiến thì sẽ còn
lại mãi mãi mà thôi. Người đời sau sẽ nhớ tới Ngô Tổng thống như một nhà ái quốc
chân chính, dám hi sinh mạng sống vì chính nghĩa. Lũ môn sinh chúng tôi và các
nhà quan tâm tới nền học thuật nước nhà sẽ nhớ tới thầy Kiệm như là một tu sĩ
‘một lòng giảng Đạo’, như một nhà văn hóa, một công dân ‘tận tụy phục vụ tổ quốc’
bằng các nỗ lực phục vụ đạo đời, nhất là công trình biên soạn về chữ Nôm giá trị
của thầy. Thầy Kiệm còn là mẫu mực về tình bạn trung thành, qúy trọng và giúp đỡ
bạn lúc hàn vi, khiêm tốn lui vào bóng tối lúc bạn ở trên tuyệt đỉnh danh vọng,
và không bao giờ bỏ rơi bạn khi bạn ngã ngựa, trái lại hết sức cố gắng làm cho
hậu thế hiểu đúng về bạn hầu đem công chính trả lại cho bạn.
Trần Vinh
Mùa Lễ Tạ Ơn, tháng 11 năm 2007
CHÚ THÍCH:
1. Ông nghè Nguyễn Tư
Giản sinh tại Bắc Ninh năm 1823, đậu tiến sĩ năm 22 tuổi dưới triều Thiệu Trị
(1841- 1847), làm quan triều Tự Đức (1848-1883). Năm 1882, tiến sĩ đã từ quan về Phát Diệm mở trường dậy học theo lời mời của
bạn là Cụ Sáu Trần Lục và qua đời tại đây năm 1890.
2. Ông Huỳnh Văn Lang
về nước năm 1954, làm Tổng giám đốc Viện hối đoái Quốc gia VN, giáo sư Đai học
Sư phạm, sáng lập kiêm chủ nhiệm, chủ bút tạp chí Bách Khoa, sáng lập một số công
ti, tác phẩm Nhân Chứng Một Chế Độ đoạt giải nhất Văn Bút VN 1972. Ông Đỗ Vạng
Lí là viên chức cao cấp; theo cuốn hồi kí Công Và Tội của Nguyễn Trân, Xuân Thu
xuất bản, trang 399 thì có lẽ chính là ông đã được Tổng thống Ngô Đình Diệm cử
làm Đại sứ tại Hoa Thịnh Đốn thay thế ông Đại sứ Trần Văn Chương bị cất chức,
nhưng HTĐ muốn cản trở nên không chấp nhận việc trình ủy nhiệm thư của ông
(trong hồi kí viết là Đỗ Văn Lý, có lẽ là một sai sót?). Ông Bùi Công Văn là nhân
viên của Đài Tiếng Nói Hoa Kì VOA (Voice Of America). Ông Búi Kiến Thành là
chuyên gia tài chánh và kinh tế ở Hoa Kì, Pháp và Việt Nam.
Ông Nguyễn Ngọc Linh, Giáo sư, Tổng giám đốc Việt Tấn Xã. Bác sĩ Nguyễn Văn Thơ,
Tổng trưởng Giáo dục VNCH trong Nội các Nguyễn Cao Kỳ năm 1965. Bà Nguyệt Minh,
Nghị sĩ VNCH, bà cũng là phu nhân của Bác sĩ Nguyễn Văn Thơ. Giáo sư Tiến sĩ
Nguyễn Đình Hòa là Khoa trưởng Đại học Văn khoa Sài Gòn, giáo sư Đại học tại
Hoa Kì. Sự hiểu biết của chúng tôi ở đây có hạn chế, xin các vị tiền bối lượng
thứ cho.
3. Cách đây khoảng 20
năm, thầy Kiệm đi Virginia thăm ông bà Bùi Công Văn lần chót, thầy vẫn thấy
trong album gia đình họ Bùi còn lưu giữ tấm hình cụ Ngô chụp sánh bước với thầy
khi hai vị đi dạo gần nhà ông bà Bùi Công Văn. Tấm hình này do chính ông Bùi Công
Văn xin cụ Ngô cho phép chụp.
4. Hồi cuối thánh 6.1954,
tại Cannes, ông Bùi Diễm hỏi Quốc
trưởng Bảo Đại: ‘Thưa Ngài, Ngài thấy ông Diệm thế nào?. Quốc trưởng Bảo Đại trả
lời: ‘Ông Diệm cũng có thể là một giải pháp, nhưng theo anh, ông Diệm có được Mỹ
ủng hộ không?’ Ông Bùi Diễm hỏi lại: ‘Thưa Ngài, sao Ngài không hỏi thẳng người
Mỹ?’
Cũng theo lời ông Bùi Diễm: ‘Vào cuối năm 1991, tôi có dịp
trở lại thăm Cựu Hoàng Bảo Đại ở Ba lê. Trở lại chuyện cũ, tôi có hỏi ông về vấn
đề này, thì ông trả lời rằng: vào thời kỳ đó, thái độ của Hoa Kỳ cũng không có
gì rõ rệt cả, tuy nhiên ông quyết định chọn ông Diệm vì ông cho rằng trong số
những nhân vật làm chính trị ở miền Nam lúc đó, ông Diệm rõ rệt là người ít dính
líu đến người Pháp trong những năm về sau này, nên có thể dễ được người dân ủng
hộ hơn những người khác….’ Khi nói về chuyện Quốc trưởng Bảo Đại bị truất phế, Ông
Bùi Diễm thuật lại như sau: ‘…Tuy nhiên, trong dịp gặp lại tôi năm 1991, ông (Bảo Đại) không hề tỏ lời oán trách ông Diệm’.
(Bùi Diễm. Gọng Kìm Lịch Sử. Cơ sở xuất bản Phạm Quang Khai, 2000. Trang 144 và
Chú thích trang 146, 147).
5. Đoàn Thêm. Việc Từng
Ngày. Xuân Thu xuất bản. Trang 148.
6. Các tác giả người Việt như các vị: Lm.Vũ Đình
Hoạt, Ls.Lâm Lễ Trinh (Bộ trưởng), Gs.Tôn Thất Thiện (Tổng trưởng), Cựu Tổng giám
đốc Viện hối đoái Huỳnh Văn Lang, Chính khách Nhị Lang, Ls.Nguyễn Văn Chức (Nghị
sĩ), Kí giả Nguyễn Trọng, Ls. Trương Tử Phòng Phạm Kim Vinh (Xin đọc Việt Nam Tự
Do - Từ Ngô Đình Diệm Đến Lưu Vong, Tủ Sách Phạm Kim Vinh, 1987. Đặc biệt xin đọc
trang 218 và trang bìa sau của cuốn sách. Trong cuốn VN Máu Lửa Quê Hương Tôi.
Văn Nghệ xuất bản, trang 527 và 529, ông Đỗ Mậu lại đưa ra chứng cớ Ls. Phạm
Kim Vinh nhận định trái ngược về cùng một vấn đề), Nhà văn Hoàng Hải Thủy, Gs.Cao
Thế Dung, Đại tá Nguyễn Hữu Duệ (Tỉnh trưởng Thừa Thiên - Huế), Đại úy Đỗ Thọ (Đại
úy 1963), Trung tá Nguyễn Văn Minh, Tiến sĩ Sử Hoàng Ngọc Thành, Gs.Thân Thị Nhân
Đức, Gs. Nguyễn Lý Tưởng (Dân biểu), Thẩm phán Lữ Giang Nguyễn Cần, Thẩm phán Phan
Thiết Nguyễn Kim Khánh, Nhà biên khảo Minh Võ, Ls.Trương Phú Thứ, Kí giả Vĩnh
Phúc, Tiến sĩ Sử Phạm Văn Lưu, Tiến sĩ Sử Nguyễn Ngọc Tấn, Tiến sĩ Sử Nguyễn Kỳ
Phong…
Trong nước, với những điều kiện cực kì khó khăn, vẫn có những
tác giả viết về các nhân vật lịch sử cận đại khá công minh, chẳng hạn như tác
giả Lý Nhân Phan Thứ Lang. Tên thật là Phan Kim Thịnh, nguyên Thư kí Tòa soạn Nguyệt
san Quê Hương (Sài Gòn, 1960-1962), nguyên Chủ nhiệm kiêm Chủ bút Tạp chí Văn Học
(Sài Gòn 1962-1975). Tác phẩm như: Trần Lệ Xuân - Giấc Mộng Chính Trường, Một
Phù Thủy Làm Quân Sư Cho Ngô Đình Diệm, Bảo Đại Vị Vua Triều Nguyễn Cuối Cùng,
Nam Phương Hoàng Hậu Cuối Cùng Triều Nguyễn, Thiệu - Kỳ - Một Thời Hãnh Tiến - Một
Thời Suy Vong…
Các tác giả nước ngoài như: Tổng thống R.Nixon (No more
Vietnams), Tướng M. Taylor (Swords and Plowshares), Kí giả Marguerite Higgins
(Our Vietnam Nightmare), Tiến sĩ Ellen Hammer (A Death In November), Tiến sĩ
Francis X.Winters (The Year of The Hare), Tiến sĩ Mark Moyar (Triumph
Forsaken)…