BA MƯƠI NĂM SỐNG PHÚC ÂM GIỮA LÒNG DÂN TỘC
Trần Ngọc Báu
(Trích từ “Ba Mươi Năm Công Giáo Việt Nam Dưới Chế Độ
Cộng Sản 1975-2005” - Nhiều tác giả - NXB Ns DĐGD và
PTGDVNHN Đức Quốc, tr.11-147)
Đúng như Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã giải thích
trong thông điệp «Đấng Cứu Chuộc con người» rằng: «Con
người là con đường của Hội thánh», nghĩa là tất cả mọi
con đường của Hội thánh đều dẫn tới con người.» (Thư mục
vụ ngày 01-05-1980 của HĐGMVN)
LỜI MỞ ĐẦU
Thư luân lưu ngày 01.05.1980 của Hội Đồng Giám Mục Việt
Nam, trong mục «Một Hội thánh vì loài người», xác nhận
căn cứ vào thông điệp «Giáo Hội Chúa Kitô» của Đức Thánh
Cha Phaolô VI để kêu gọi toàn thể tín hữu góp sức «canh
tân» Giáo Hội Việt Nam trong «giai đoạn mới này của Dân
tộc»[1]. Thứ nhất, đã đến lúc Giáo Hội phải suy gẫm
triệt để hơn nữa về bản chất của mình là «dân Thiên
Chúa», sống với «giới răn mới là bác ái yêu thương (Gn
13, 34)»[2]. Thứ hai, Giáo Hội Chúa Kitô được thiết lập
vì loài người, có sứ mạng phục vụ từng người và từng dân
tộc như «muối cho đời» và «ánh sáng cho trần gian» (Xem
Mt 5, 13-16). «Do đó, đối với người tín hữu, xao lãng
bổn phận trần thế tức là xao lãng bổn phận đối với tha
nhân, và hơn nữa đối với Thiên Chúa, khiến phần rỗi đời
đời của mình bị đe dọa (MV, 43). Tóm lại, sứ mạng của
Hội thánh là tiếp nối sứ mạng của Chúa Giêsu Kitô, Đấng
đã đến không phải để được người ta hầu hạ, nhưng để phục
vụ tất cả loài người. Đúng như Đức Thánh Cha Gioan
Phaolô II đã giải thích trong thông điệp ‘Đấng Cứu Chuộc
con người’ rằng: ‘Con người là con đường của Hội thánh’,
nghĩa là tất cả mọi con đường của Hội thánh đều dẫn tới
con người.»[3]
Thực vậy, «con người là con đường của Hội thánh». Và vì
văn hóa chính là hình hài, sắc thái do con người tạo ra,
cũng đồng thời trở thành xương thịt, bản sắc của chính
mình, nên các nền văn hóa cũng là con đường của Hội
Thánh[4]. Chính vì đó, thể theo các văn kiện của Công
Đồng Vatican II và những giáo huấn tiếp theo, Giáo Hội
phải tiếp tục sứ mạng «nhập thể» của Đức Kitô, phải
«thành xương thịt» của loài người và với loài người bằng
cách hòa nhập vào các nền văn hóa thế giới[5]. Như chính
Thiên Chúa đã làm người và lớn lên giữa cộng đồng nhân
loại, dân Chúa cũng phải làm người trong lòng dân tộc
mình, làm men dậy và muối ướp cho nền văn hóa bản địa
mình. Sống chân thành trong và triệt để hòa nhập vào nền
văn hóa mình, thành tâm chấp nhận thân phận dân tộc
mình, dân Chúa mới mong có thể chuyển hóa và «phúc âm
hóa» nếp sống của dân tộc mình nói riêng và nhân loại
nói chung.[6]
Bởi Lời Chúa đã đi vào lịch sử nhân loại từ ngày tạo
thiên lập địa và nhất là từ lúc Ngôi Lời đã nhập thể làm
người, nên Lời Chúa không vô hình tướng, mà thực sự đã
hòa nhập vào xác tín, nếp sống, nếp tình tự, nếp suy
nghĩ cùng với xã hội của những người tin Chúa, theo
Chúa, nghĩa là Lời Chúa đã đi vào nền văn hóa sống động
của từng cộng đồng dân Chúa tại địa phương. Những tín
hữu này càng nhập tâm Lời Chúa, thì càng sống trung thực
Lời Chúa trong cuộc sống hằng ngày của mình, trong xã
hội mình đang sống, tức là trong nền văn hóa mình đã hấp
thụ. Thực ra, Lời Chúa đến với con người không phải để
biến thành học thuyết làm khô cứng cuộc sống, mà là để
cho con người sống thực và sống dồi dào. Theo tinh thần
Công Đồng Vatican II, sống Đức Tin như thế được Tòa
Thánh, các hàng giáo phẩm và các nhà thần học từ năm
1975 trở đi gọi là «hòa nhập văn hóa»
(inculturation).[7]
Như thế, «con người là con đường của Hội thánh» và, vì
thiết thân gắn liền với con người, văn hóa cũng là con
đường của Hội Thánh. Làm người với Lời Chúa và hòa nhập
văn hóa với Lời Chúa là con đường dân Chúa tất yếu phải
đi qua để đến với Chúa, không còn con đường nào khác.
Thư mục vụ 1980 xác nhận: «Không có sinh hoạt nào của
con người lại xa lạ đối với sứ mạng của Hội thánh, và
ngược lại không có sinh hoạt nào của Hội thánh không
liên quan tới tất cả cuộc sống con người.»[8] Chính Chúa
Giêsu Kitô đã quả quyết rằng tất cả những gì người tín
hữu làm cho con người đều là làm cho chính Chúa (Mt25,
35-40), Đấng vì yêu thương loài người chúng ta mà mang
thân phận làm người giống như chúng ta và đã nêu gương
hy sinh vì loài người để dạy chúng ta biết phải làm
người như thế nào. Nói cách khác, Thiên Chúa đã làm
người với mọi người, nên trong Chúa Giêsu Kitô, đạo làm
người mang một bản sắc mới, hay, đúng hơn, đạo làm người
đã được Chúa nâng cấp và biến thành đạo Chúa![9]
Để hiểu được con đường của Hội thánh trong 30 năm dưới
chế độ độc tài toàn trị, (1) sau khi nắm vững lời giáo
huấn của Thư mục vụ 1980 của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam,
gạch nối giữa hai giai đoạn trước và sau 1975, (2) chúng
ta cần ôn lại con đường Hội thánh đã đi qua trong suốt
chiều dài lịch sử của mình đến 1975. (3) Tiếp theo,
chúng ta tìm hiểu sự đóng góp độc đáo của Hội thánh Chúa
cho con người việt nam và cho nền văn hóa dân tộc kể từ
1975 chấm dứt chiến tranh và lập lại hòa bình đến nay.
(4) Cuối cùng, chúng ta thử đánh giá khía cạnh đặc trưng
và sáng tạo trong công cuộc «hòa nhập văn hóa» của Hội
thánh Chúa trong lòng dân tộc việt nam, cũng như những
thiếu sót không thể tránh của một giáo hội địa phương
gồm những con người yếu đuối (tội lỗi) và đang trên
đường hành trình vất vả về Nhà Cha.
Cùng với Thư mục vụ 1980, chúng ta sẽ không mặc cảm khi
nhìn về quá khứ, mạnh dạn nhìn vào hiện tại và tin tưởng
ở tương lai của Hội thánh Chúa, theo như lời nhắn nhủ
của HĐGMVN sau đây: «Nhìn về quá khứ, chúng tôi cảm mến
sâu sắc bàn tay nhân lành của Thiên Chúa đã êm ái và
mạnh mẽ hướng dẫn Hội thánh Người trên đất nước Việt Nam
chúng ta. Chúng tôi biết ơn công lao của vô vàn tín hữu
đã làm sáng tỏ Đức Tin và lòng yêu nước của mình. Đừng
nhìn quá khứ với mặc cảm và phán đoán tiêu cực. Lịch sử
luôn pha lẫn ánh sáng và bóng tối, cũng như đời sống
những người con của Chúa vẫn có cả ân sủng và tội lỗi.
Nhưng dựa vào tình thương của Chúa Cha, dựa vào lời ban
sự sống của Chúa Giêsu Kitô và sức mạnh của Chúa Thánh
Thần, chúng ta hãy mạnh dạn nhìn vào hiện tại và tin
tưởng ở tương lai.»[10]
1- THƯ MỤC VỤ 1980 : TUYÊN NGÔN VỀ ĐƯỜNG HƯỚNG «HÒA NHẬP
VĂN HÓA»
Kể từ năm 1960 là năm thành lập Hàng Giáo Phẩm Việt Nam,
đây là lần đầu tiên Hội Đồng Giám Mục Việt Nam (HĐGMVN)
[11] họp Đại hội Giám mục Toàn quốc trong một tuần lễ
tại thủ đô Hà Nội năm 1980. Vào ngày bế mạc 01.05.1980,
HĐGMVN đã gửi một Thư mục vụ cho tín hữu công giáo toàn
quốc, xác quyết ngay ở đầu mục «Hội thánh trong lòng dân
tộc», rằng: «Để sống trung thành với bản chất và sứ mạng
của Hội Thánh (…), chúng tôi đề ra đường hướng mục vụ
sau đây: chúng ta phải là Hội thánh của Chúa Giêsu Kitô
trong lòng dân tộc Việt Nam.»[12] Do sự kiện phân qua
lãnh thổ ở vĩ tuyến 17 từ năm 1954 và chiến tranh kéo
dài vừa chấm dứt năm 1975, lần đầu tiên Giáo Hội của
Chúa Giêsu Kitô tại Việt Nam mới có một tiếng nói chính
thức và đồng nhất (trên cả hai miền Nam Bắc) của Hàng
Giáo Phẩm Việt Nam[13], nên thư mục vụ này có một tầm
quan trọng đặc biệt, đánh dấu một bước dấn thân mới của
Cộng Đồng Dân Chúa trong sự hòa nhập vào cộng đồng dân
tộc trên toàn lãnh thổ Việt Nam đã được thống nhất, hay,
nói theo tinh thần từ Công Đồng Vaticanô 2 trở đi, là
trong sự thiết thân hòa nhập vào nền «văn hóa»[14]
truyền thống và hiện thực của Dân tộc…
Mục trên viết tiếp: «Là Hội thánh trong lòng Dân tộc
Việt Nam, chúng ta quyết tâm gắn bó với vận mạng Quê
hương, noi theo truyền thống dân tộc hòa mình vào cuộc
sống hiện tại của Đất nước. Công đồng (Vatican II) dạy
rằng: ‘Hội thánh phải đồng tiến với toàn thể nhân loại
và cùng chia sẻ một số phận trần gian với thế giới’ (MV
40,2). Vậy chúng ta phải đồng hành với Dân tộc mình,
cùng chia sẻ một cộng đồng sinh mạng với Dân tộc mình,
vì Quê hương này là nơi chúng ta được Thiên Chúa mời gọi
để sống làm con của Người. Đất nước này là lòng Mẹ cưu
mang chúng ta trong quá trình thực hiện ơn gọi làm con
Thiên Chúa. Dân tộc này là cộng đồng mà Chúa trao cho
chúng ta để phục vụ với tính cách vừa là công dân vừa là
thành phần Dân Chúa.»[15]
Thực vậy, đây là lần đầu tiên người tín hữu công giáo
Việt Nam trên toàn quốc được các Chủ Chăn đồng thanh đề
ra một «đường hướng mục vụ» chung, với những lời lẽ xác
quyết rõ ràng và dứt khoát rằng «chúng ta phải là Hội
Thánh của Chúa Giêsu Kitô trong lòng dân tộc Việt Nam».
Đường hướng mục vụ này phải được xem là một Tuyên Ngôn
về đường hướng «hòa nhập văn hóa»[16] thể theo tinh thần
Công Đồng Vatican II, mà người tín hữu được khuyến khích
noi theo để sống đạo và giữ đạo Chúa trong bất cứ hoàn
cảnh nào, kể cả hoàn cảnh đất nước được lãnh đạo bởi một
đảng cộng sản chuyên chính, độc tài và toàn trị như
trường hợp hiện hành ở Việt Nam.
Tất nhiên, đường hướng mục vụ này chỉ nhằm cổ võ cho lập
trường dấn thân phục vụ, trên lập trường dân tộc, quần
chúng nhân dân Việt Nam, là những con người được Chúa
yêu thương, và tuyệt nhiên không hề hàm ý cổ võ người
tín hữu phải dấn thân phục vụ trên lập trường chính trị
đảng phái của nhà cầm quyền cộng sản, hay của một đảng
chính trị nào. Bởi lẽ, Giáo Hội của Chúa Giêsu Kitô
không có trách nhiệm trực tiếp đối với trần thế do những
quyền lực chính trị và chính trị phe phái đảm trách, vì
như Chúa Giêsu đã nói với viên Tổng Trấn Philatô «Nước
tôi không thuộc về thế gian này» (Gn 18, 36), mà chỉ có
trách nhiệm hướng dẫn người tín hữu cách sống đạo Chúa
giữa trần thế đúng theo tinh thần của Chúa Giêsu Kitô.
Tinh thần của Chúa được thánh Phaolô long trọng xác
nhận: «Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa (…) đã hoàn
toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân phận nô lệ, trở
nên giống phàm nhân, sống như người trần thế» (Pl 2,
6-7). Quả vậy, Thiên Chúa đã nhập thể làm người trong
thân phận nghèo khó, áp bức của dân Người và trong một
đất nước bị ngoại bang đô hộ, không phải để đánh đuổi
ngoại bang và tái lập một Vương quốc Israel, mà trái lại
là sống xả thân vì yêu thương mọi người (kể cả những kẻ
thù của dân tộc Israel) với tinh thần xả kỷ, quên mình,
đến mức sẵn sàng hy sinh mạng sống mình vì anh em đồng
bào đồng loại mình.
Khi HĐGMVN dùng chữ «phải» trong câu «Chúng ta phải là
Hội thánh của Chúa Giêsu Kitô trong lòng dân tộc Việt
Nam», các Ngài xác định dứt khoát đó là một đòi buộc của
Tin Mừng, của chính Lời Chúa. Đòi buộc đối với ai ? Đối
với tất cả mọi người tín hữu Việt Nam, vì «Hội Thánh»
đây không phải chỉ có hàng giáo phẩm. Thực vậy, mọi tín
hữu Việt Nam (kể cả hàng giáo phẩm) hợp thành một đoàn
ngũ thuộc về Chúa Giêsu Kitô (chớ không phải thuộc về
chính quyền này hay một quyền lực nào khác, kể cả quyền
lực của Hội Thánh, nếu có) đều «phải» sống theo luật yêu
thương của Người trong lòng dân tộc Việt Nam như những
con người trưởng thành và những con dân trung hiếu của
Quê hương Đất nước. Đó là một đòi buộc của chính Chúa
Giêsu Kitô, chớ không phải là ý kiến riêng của các Ngài.
Tại sao ?
HĐGMVN giải thích tiếp là tại vì Công Đồng Vatican II
dạy rằng «Hội thánh phải đồng tiến với toàn thể nhân
loại và cùng chia sẻ một số phận trần gian với thế
giới.» (MV 40,2). Nghĩa là tất cả mọi người trong Cộng
Đồng Dân Chúa nói riêng và toàn thể Giáo Hội VN nói
chung phải cùng «đồng hành » với mọi người, ưu tiên nhất
là với đồng bào mình, và hơn nữa phải cùng «chia sẻ» một
thân phận chung với loài người, ưu tiên nhất là thân
phận của dân tộc mình. Đồng hành với đồng bào và chia sẻ
thân phận của dân tộc, tức là chấp nhận «hòa nhập» hết
mình và triệt để với vận mạng của dân tộc. Chính HĐGMVN
xác nhận : «Là Hội thánh trong lòng Dân tộc Việt Nam,
chúng ta quyết tâm gắn bó với vận mạng Quê hương, noi
theo truyền thống dân tộc hòa mình vào cuộc sống hiện
tại của Đất nước.»
HĐGMVN còn giải thích thêm tại sao «chúng ta phải đồng
hành với Dân tộc mình, cùng chia sẻ một cộng đồng sinh
mạng với Dân tộc mình, (là) vì Quê hương này là nơi
chúng ta được Thiên Chúa mời gọi để sống làm con của
Người. Đất nước này là lòng Mẹ cưu mang chúng ta trong
quá trình thực hiện ơn gọi làm con Thiên Chúa. Dân tộc
này là cộng đồng mà Chúa trao cho chúng ta để phục vụ
với tính cách vừa là công dân vừa là thành phần Dân
Chúa.» Không còn gì rõ ràng hơn những lời hướng dẫn mục
vụ thắm thiết tình người và Tình Chúa trên đây! Nơi
người tín hữu Việt Nam, tình yêu Quê hương sẽ phải được
nâng lên và hòa nhập vào Tình Yêu Chúa.
Khi nói về nhiệm vụ bảo vệ và xây dựng Tổ quốc, HĐGMVN
khẳng định: «Yêu Tổ quốc, yêu đồng bào đối với người
công giáo không những là một tình cảm tự nhiên phải có,
mà còn là một đòi hỏi của Phúc Âm, như Công Đồng
(Vatican II) nhắc nhở: ‘Các người Kitô giáo từ mọi dân
tộc tụ họp trong Hội Thánh, không phân cách với những
người khác về chế độ, về ngôn ngữ, cũng như về tổ chức
xã hội trần gian, nên họ phải sống cho Thiên Chúa và cho
Chúa Kitô trong nếp sống lành mạnh của Dân tộc mình; là
công dân tốt, họ phải thực sự và tích cực vun trồng lòng
yêu nước’.» (TĐ. 15)[17] Nói với các tu sĩ, HĐGMVN xác
nhận: «Đường hướng mà chúng tôi vạch ra cho cả Hội thánh
ở Việt Nam: sống Phúc Âm giữa lòng Dân tộc với tinh thần
sẵn sàng phục vụ, phù hợp cách riêng với anh chị em»; và
với các linh mục: «Xin anh em hãy cùng chúng tôi đưa Hội
thánh ở Việt Nam đi vào con đường đã chọn lựa: là sống
Phúc Âm giữa lòng Dân tộc để phục vụ hạnh phúc của đồng
bào.»[18]
Lời hướng dẫn mục vụ của Thư luân lưu 1980, phát xuất từ
đáy lòng chân thực của các vị Chủ Chăn Việt Nam, đã trở
thành lời tuyên xưng nồng nàn và dứt khoát «yêu Chúa và
yêu nước» của HĐGMVN, nhằm xác định cho tín hữu cách
«sống trung thành với bản chất và sứ mạng của Hội
Thánh», mặc cho những quyền lực trần thế có thể lợi dụng
hay không! Thực vậy, bản chất và sứ mạng của Hội Thánh
Chúa chính là bản chất và sứ mạng của Chúa Giêsu Kitô,
Con Thiên Chúa đã «nhập thể» làm người như mọi người và
với mọi người, để phục vụ con người và thu phục nhân tâm
về với Thiên Chúa (tức là «cứu độ nhân loại») bằng cách
chứng tỏ lòng yêu thương vô lượng và vô điều kiện của
Thiên Chúa đối với từng người, từng dân tộc và toàn thể
nhân loại trong mọi thời đại, và dạy Hội Thánh phải thực
hành luật yêu thương vô điều kiện của Chúa bằng cách
sống hòa nhập với mọi người trong mọi tình huống hiện
thực của họ, tức là sống «hòa nhập văn hóa» với đồng bào
mình trong thời đại mình sinh sống.
Đoạn văn này có nhắc đến việc «noi theo truyền thống dân
tộc» mà dấn thân với Quê hương Đất nước. Một lời nhắc
nhở thoáng qua nhưng rất hàm xúc ý nghĩa và đầy tình tự
dân tộc, khơi dậy dòng sinh lực ngàn đời của khí thiêng
sông núi nơi lòng người tín hữu Việt Nam. Quả vậy,
truyền thống dân tộc này là truyền thống đặc thù của một
dân tộc từng bị giặc ngoại xăm dầy xéo trong suốt chiều
dài lịch sử, thường phải hy sinh rất nhiều xương máu và
mọi nếp sống riêng tư hầu giữ cho được sự đoàn kết nhất
trí toàn dân để cùng một lúc giữ nước và dựng nước trong
bất cứ điều kiện hiện sinh nào. Hễ giặc đến thì đàn bà
cũng phải đánh. Với tay súng tay cày, vừa đánh giặc
ngoại xăm, vừa xây dựng xóm làng! Coi cái khổ, cái đói,
cái rách, cái chết cho quê hương là chuyện bình thường
của người con dân yêu nước, yêu đồng bào. Bởi thế, khác
với nhiều dân tộc khác trên thế giới, bản sắc rất đặc
trưng của nền văn hóa Việt Nam là yêu nước và xả thân vì
đồng bào. Nói một cách cụ thể, người tín hữu yêu nước
chính là yêu mến và xả thân phục vụ ông bà cha mẹ anh
em, giòng họ, đồng hương, đồng bào, toàn thể dân tộc,
cũng như giữ một lòng thờ kính tổ tiên, trung với nước
hiếu với dân, sẵn sàng hy sinh để giữ nước và dựng nước.
Đó chính là bác ái kitô-giáo trong biểu hiện «hòa nhập
văn hóa». Và đó cũng là con đường Hội thánh Chúa phải đi
qua để phát huy truyền thống yêu nước xứng hợp với tinh
thần Phúc Âm hơn.
Như vậy, từ khi Đạo Chúa đến Việt Nam cách nay 472 năm
(từ 1533), nhất là từ ngày có bản Tuyên ngôn độc lập năm
1945 đến nay, Giáo Hội Công Giáo Việt Nam (GHCGVN) có
chăng một lập trường sống Phúc Âm giữa lòng dân tộc dứt
khoát và minh bạch như những lời lẽ trích trong bức thư
mục vụ năm 1980 trên đây? Hay là thư mục vụ này chỉ là
một sản phẩm thời trang trí trá, một thủ đoạn trá hình,
để cho GHCGVN có thể sống yên thân với chế độ xã hội chủ
nghĩa đang nắm cả vận mạng đất nước trong tay? Để trả
lời vấn nạn này một cách nghiêm chỉnh, chúng tôi thiển
nghĩ tốt nhất, thay vì dẫn chứng bằng những sự kiện rời
rạc, nên khách quan tìm hiểu sợi chỉ đỏ xuyên suốt lịch
sử GHCGVN là gì.
2- TÌM HIỂU SỢI CHỈ ĐỎ XUYÊN SUỐT LỊCH SỬ GHCGVN
Nhìn một cách khách quan trên các văn kiện chính thức
của Hàng Giáo phẩm Công giáo Việt Nam (HGPCGVN) cũng như
trong nếp sống riêng tư của người tín hữu Việt Nam,
người ta không khỏi ngỡ ngàng nhận thấy rằng GHCGVN đã
từng cố gắng «sống Phúc Âm giữa lòng dân tộc» từ khi Đạo
Chúa du nhập vào Việt Nam, và sôi động nhất là từ khi có
bản Tuyên ngôn độc lập năm 1945 cho đến ngày nay.
Nói rằng GHCGVN đã từng cố gắng sống Phúc Âm giữa lòng
dân tộc Việt Nam, đối với một số người ngoài công giáo
(nhất là cộng sản), nghe đâu như có vẻ muốn gỡ gạc một
cái gì đó, hay muốn khoác lác để lấp liếm và đánh phủ
đầu dư luận đàm tiếu xưa nay cho rằng người theo Đạo
Chúa là theo Tây, theo đế quốc thực dân Pháp và theo tân
đế quốc Mỹ, không còn biết yêu nước, và đã chứa chấp sẵn
mầm móng phản bội dân tộc rồi. Gỡ gạc hay lấp liếm thì
hạ hồi phân giải. Nhìn vào lịch sử của GHCGVN, người tín
hữu nhận thấy rằng Giáo Hội thật sự có nhiều nỗ lực sống
trung thành với Lời Chúa và cải tiến cách hòa nhập với
dân tộc Việt Nam ngày một phù hợp hơn với bản chất và sứ
mạng của mình.
Cách riêng, nếu nhìn vào những gì đã xảy ra từ năm 1945
cho đến bức thư mục vụ của HĐGMVN 1980, người ta phải
nhìn nhận rằng, nếu Đạo Chúa có tội với Đất nước, thì đó
phải là tội đã trót dại liều thân sống chết với vận mạng
của một dân tộc đã và đang còn gặp quá nhiều hoạn nạn
khốn đốn, đang khi Đạo Chúa thì chỉ rao giảng Phúc Âm và
Tình thương của Chúa; ngoài ra, không có một quyền lực
trần thế nào để cứu nguy dân tộc, dù đã thấy trước và
thấy rất rõ những tai họa kinh hoàng từ nhiều phía đổ
trên đầu dân tộc đáng yêu này. Thực vậy, Đạo Chúa ở Việt
Nam cũng như ở Tòa Thánh Vatican không có một đạo quân
nào, hay một kho bạc khổng lồ nào, để có thể áp lực các
cường quốc (hay đế quốc) phải tôn trọng quyền sống và
quyền tự quyết của dân tộc Việt Nam. Xin hãy nhìn thẳng
vào thực tại lịch sử để hiểu những đường hướng mục vụ
chính thức cũng như bán chính thức của HGPCGVN và để
nhận chân cái bản chất đích thực của một giáo hội chịu
yếu đuối với kẻ yếu đuối và bị trù dập với kẻ bị áp bức
bởi cường quyền, cũng y như thân phận hẩm hiu của dân
tộc Việt Nam, mặc dù vẫn cố gắng cùng với dân tộc vươn
lên…!
Dù sao, ngay cả đối với từng cá nhân tín hữu công giáo,
cũng không dễ nhìn thấy và chấp nhận ý nghĩa của những
đường hướng mục vụ này. Đó là vì cách thế dấn thân và
chọn lựa của cộng đồng dân Chúa đã được thể hiện trong
những điều kiện rất nghịch lý và những hoàn cảnh rất
xung khắc nhau, nên có vẻ như trái nghịch nhau trong
từng giai đoạn: Trước 1975, có vẻ như theo đế quốc thực
dân Pháp và tân đế quốc Mỹ, và sau 1975 có vẻ như theo
đế quốc cộng sản mà CSVN là một thành phần trung kiên.
Sau đây, chúng ta thử lần lượt duyệt xét các chặng đường
Giáo Hội đã đi qua…
2.1-- Trước 1945 : xin được yên thân giữ đạo và phục vụ
đồng bào trong những điều kiện hiện hữu, từ những thời
kỳ nghi kỵ, cấm cách và bắt đạo cho đến thời kỳ được tự
do giữ đạo dưới chế độ thuộc địa Pháp.
Thiết nghĩ chúng ta chỉ cần nhìn thoáng qua giai đoạn
trước 1945 để thấy rằng từ khi Đạo Chúa có mặt tại Việt
Nam năm 1533, GHCGVN vẫn hằng dạy người tín hữu phải
trung với nước hiếu với dân, đúng theo đòi hỏi của luật
mến Chúa yêu người. Bởi đó, trước 1945, người tín hữu
Việt Nam đã cố gắng sống trung thành với Niềm Tin Yêu
Chúa đang khi vẫn chú tâm sống hòa đồng với dân tộc
mình, cho dù bị hiểu lầm, kỳ thị, cấm cách, hoặc được
chút dễ dãi dưới thời chính quyền đô hộ và bảo hộ Pháp.
Trong suốt gian đoạn dài lâu này, thực ra dân Chúa
chuyên lo củng cố Niềm Tin, sống co cụm trong các xứ
đạo, truyền bá Đạo trong chừng mực cho phép, tránh những
sự va chạm có thể gây thêm hiểu lầm, phục vụ đồng bào
theo khả năng của mình, và không hề có mưu đồ phản
nghịch lại tổ quốc hay làm cách mạng phế bỏ triều đình…
Thực vậy, trong khoảng 300 năm đầu, người tín hữu công
giáo đã tỏ lòng yêu nước thương dân bằng một nếp sống
của người con dân có kỷ luật và của người có đạo tốt,
khiêm nhu, hòa hợp, chỉ mong được yên thân tự do giữ đạo
Chúa, mong ít bị làm khó dễ đến đâu tốt đến đấy, hoặc
không bị kỳ thị, cấm cách thế này hay thế khác. Sau đó,
trong thời kỳ GHCGVN bị bách hại hà khắc nhất, kể từ
triều đại Vua Minh Mạng (1820) đến Hòa Ước Giáp Tuất
(1874), đang khi có hằng vạn người tín hữu Việt Nam bị
xử tử hình hay tù tội vì «theo tà đạo», thì cộng đồng
dân Chúa vẫn trung với Vua hiếu với dân và, xét cho
cùng, không một tín hữu nào bị lên án với tội danh rõ
ràng là «phản quốc».
Và từ Hòa Ước Giáp Tuất (1874), trong đó có điều khoản
triều đình cam kết chấm dứt việc cấm đạo, và nhất là từ
sau Hòa Ước Giáp Thân (1884), còn được gọi là Hiệp Ước
Patenôtre, GHCGVN được tự do hành đạo và phát triển thực
sự dưới sự che chở của luật pháp nước bảo hộ cho đến năm
1945, nhưng, nói chung, không hề rắp tâm lợi dụng tình
thế ưu đãi này để ngồi trên đầu dân, bóc lột dân, «bán
nước» cho Tây, như có một số dư luận ác cảm với GHCGVN
đưa ra, hoặc như «Bản án chế độ thực dân Pháp» (1925) ký
tên Nguyễn Ái Quốc nói đến một cách nham hiểm và cường
điệu .
Thực ra, trước khi có hai Hòa Ước nói trên, thấy tình
hình đất nước nguy ngập do thực dân Pháp, lấy cớ triều
đình bắt đạo, rắp tâm thôn tính cả nước, đang khi vua
quan nhà Nguyễn thiếu thức thời và sáng suốt, nên có
những tín hữu đã tận lực dâng công giúp Vua Tự Đức và
được nhà Vua tin cẩn trọng dụng, như Linh mục Đặng Đức
Tuấn đã viết những bản điều trần giải thích cho triều
đình hiểu rõ đạo Chúa (1961, 1962)[19], hoặc như nhà trí
thức công giáo yêu nước Nguyễn Trường Tộ trong vòng 10
năm đã dâng trên 50 tờ tấu, tờ trình, bản nghiên cứu, dự
án, kế hoạch này khác xin Vua Tự Đức lập kế hoãn binh
với thực dân Pháp và cấp tốc cởi mở, canh tân, phát
triển Đất Nước để có thể thương lượng đòi lại những tỉnh
đã nhượng cho Pháp ở Nam Kỳ; rất tiếc, ông mất sớm vào
năm 1871, lúc mới 41 tuổi.[20]
Cũng vậy, Linh mục Trần Lục (tục gọi Cụ Sáu) đã động
viên người công giáo giúp nhà Vua dẹp giặc Lê Phụng[21]
(lấy danh nghĩa nhà Lê nổi lên chống lại triều đình nhà
Nguyễn từ 1860 đến1865 ở Bắc Việt). Cũng chính Cụ Sáu đã
đáp lại lời thỉnh cầu của triều đình về Ninh Bình để thu
xếp việc hòa giải giữa người lương và giáo năm 1874[22].
Và về sau, còn nổi bật một gương mặt tín hữu công giáo,
ông Trương Vĩnh ký (1837-1898), được biết là người có
«làm với Pháp mà không theo Pháp», «một người yêu nước
sâu sắc, có tinh thần dân tộc mạnh mẽ, gắn bó mật thiết
với gia đình, bạn bè, quê hương, có ý thức rõ rệt làm
việc có ích cho dân cho nước (….) bám chắc những truyền
thống tốt đẹp của dân tộc như đoàn kết, yêu nước, chống
xăm lăng...»[23]
Tất nhiên, người con Chúa phải xót xa nhìn nhận rằng,
bất hạnh thay, đạo Chúa được hồi sinh trong hơn 70 năm
dưới ách đế quốc thực dân Pháp (1874-1945) do bởi bọn họ
có lấy cớ nhà Nguyễn giết hại người công giáo và các
giáo sĩ thừa sai Tây phương để đánh chiếm và đô hộ Việt
Nam. Dù bị đánh giá tiêu cực đến đâu, trong giai đoạn
này, GHCGVN đã có những hành động tích cực đáng kể, như
«xây dựng được rất nhiều cơ sở văn hóa, giáo dục (trường
học, trường dậy nghề), xã hội, từ thiện (trạm y tế, bệnh
viện, cô nhi viện, trại cùi, nhà tế bần…), thánh đường,
tu viện, chủng viện… Những công trình này không phải chỉ
để phục vụ những người Công Giáo nhưng còn là những đóng
góp cho đất nước và nhằm phục vụ mọi thành phần dân tộc
không phân biệt tôn giáo. Lợi dụng thời thế để phát
triển sau hơn 300 năm bị cấm cách có phải là một tội hay
không?»[24]
Và, xét về mặt lịch sử, người công giáo khách quan cộng
tác với nhà nước đô hộ Pháp, (như trường hợp Trương Vĩnh
Ký nói trên), để tích cực góp phần cải thiện thân phận
đọa đầy của Đất nước và xây dựng con người và xã hội
Việt Nam không thể được coi là một cách góp phần vào
việc xây dựng Quê hương Đất nước sao? Trước cũng như
trong giai đoạn lịch sử đầy thử thách ấy, còn có biết
bao đóng góp to nhỏ, công khai hay âm thầm, đầy lòng quả
cảm của hằng hà tín hữu thành tâm yêu nước, chẳng hạn
như việc giúp nâng cao dân trí bằng giáo dục học đường,
hoàn chỉnh cách viết chữ quốc ngữ, đóng góp vào kho tàng
văn học, hay giúp một số người thiếu may mắn bằng các
công việc từ thiện, xã hội.
Dù sao, vấn đề thuộc lịch sử nói trên thì đâu vẫn còn
đó, và có thể là một đề tài cần tra cứu nghiêm túc để
giúp thanh lọc hoài niệm tập thể, giải tỏa những uẩn
khúc trong tình tự dân tộc và xây dựng một viễn tượng
hòa hợp dân tộc trong sáng hơn! Tuy nhiên, rõ ràng nhất
là kể từ năm 1945, lòng yêu nước của người tín hữu CGVN
được nung nấu âm thầm dưới thời thực dân Pháp đã được
bộc lộ một cách quyết liệt và hào hùng hơn bao giờ hết.
Quả vậy, kể từ năm 1945 trở đi, Cộng Đồng Dân Chúa đã
tích cực tham gia vào việc nước như một thành phần cấu
thành của dân tộc Việt Nam, hòa nhập làm một với vận
mạng dân tộc và thiết thân sống chết với thân phận đất
nước.
2.2-- Điện văn 1945 yêu cầu Tòa thánh ủng hộ nền độc lập
Việt Nam và hai cường quốc Anh Mỹ can thiệp để tránh cho
Việt Nam nạn binh đao khói lửa được thấy trước là vô
cùng khốc liệt.
Thực vậy, lịch sử có chứng minh, khi thì mặc nhiên và
lúc thì minh thị, rằng HGPCGVN nói riêng và người tín
hữu công giáo nói chung đều đã không hề dửng dưng với
vận mạng Quê hương, mà trái lại là được thúc đẩy bởi
tinh thần Phúc Âm, đã thật sự hòa mình vào và trung thực
sống với thân phận của Quê hương Đất nước trong từng
giai đoạn lịch sử của Dân tộc.
Chẳng hạn, một sự kiện lịch sử vô tiền khoáng hậu là
ngay sau khi có Tuyên ngôn độc lập (1945), tất cả 4 Giám
Mục Việt Nam lúc bấy giờ, gồm có Giám Mục (GM) Nguyễn Bá
Tòng, GM Bùi Chu Hồ Ngọc Cẩn, GM Vĩnh Long Ngô Đình
Thục, và GM Phát Diệm Lê Hữu Từ, mà người đại diện là GM
tiên khởi việt nam Nguyễn Bá Tòng đã ký một điện văn
ngày 23.09.1945 và ký tiếp theo một điện văn ngày
04.11.1945 [25] gởi đến Tòa Thánh Vatican và 2 nước
Anh-Mỹ «yêu cầu Đức Giáo Tông, Triều đình La Mã, các
Hồng y, Tổng Giám mục, Giám mục và hết các giáo sĩ cùng
giáo dân toàn cầu, ủng hộ nền Độc lập của Tổ quốc Việt
Nam chúng tôi.»
Điện văn tiếp: «Nhất là chúng tôi hô hào hai Cường quốc
Anh-Mỹ xin can thiệp một cách hiệu quả để chúng tôi khỏi
lâm vào nạn binh đao ghê sợ, giữa lúc cả hoàn cầu đã
được hưởng thái bình (…) Phải, chính lúc này ở nước Việt
Nam chúng tôi đang diễn ra một cuộc xung đột đáng lo
ngại. Lòng ái quốc anh dũng và không lây chuyển của
người Việt Nam đang xô họ ra chốn sa trường, xông pha
đạn lửa! Chỉ vì muốn giữ vững nền độc lập, chỉ vì muốn
bênh công lý và tự do, mà một số lớn con dân đang bị
giết hại, những con dân mà nước Việt Nam rất cần để kiến
thiết và mưu lấy hạnh phúc cho mình!»
Ai đã từng sống qua những ngày tháng lịch sử sôi bỏng
của cuộc khởi nghĩa tháng 8 và tuyên ngôn độc lập ngày 2
tháng 9 năm 1945 tại Việt Nam lúc bấy giờ và đã từng cảm
nhận được khí thế bừng bừng của toàn dân Việt Nam muôn
người như một vùng đứng lên thề quyết tử bảo vệ đất
nước, đang khi giặc Pháp trở lại Saigon vào tháng 8 năm
1945 (dưới sự bảo trợ của quân đồng minh Anh được gởi
đến để giải giới quân Nhật) và đã mở cuộc càn quét Thanh
Niên Tiền Phong trang bị bằng tầm vong vót nhọn tại
Saigon vào đêm 22 rạng ngày 23 tháng 9.1945 để khởi đầu
cuộc tái chiếm lại Nam Kỳ liền sau đó, thì mới hiểu thấm
thía những lời kêu cứu thống thiết, khẩn trương và đầy
quả cảm của 4 vị giám mục việt nam lúc bấy giờ. Xin ghi
nhớ, điện văn thứ nhất gởi Tòa thánh đúng vào ngày vào
23 tháng 9 này!
Lúc bấy giờ là lúc mà đa số hàng giám mục ngoại quốc tại
Việt Nam là người Pháp, và lẽ thường tình là cá nhân họ
có thể có cảm tình với việc Pháp trở lại Đông Dương cũng
như tỏ ý nghi ngại đối với công cuộc khởi nghĩa dành độc
lập dưới sự lãnh đạo của một đảng cách mạng trá hình là
Đảng Cộng Sản Việt Nam (CSVN) mà họ được thông tin rỉ rả
từ trước năm 1945. Trong tình huống cực kỳ sôi bỏng,
vàng thau lẫn lộn, máu đổ thịt rơi của người dân Miền
Nam, lời lẽ khẩn trương của điện văn thứ hai nói trên
cho thấy lòng yêu nước của 4 vị Giám mục Việt nam rất
can trường, nồng nàn, vô tư và rực rỡ sáng ngời như thế
nào!
Các ngài đã tỏ ra có lòng yêu nước chân thực và sáng
suốt, bất chấp cuộc khởi nghĩa dành độc lập được biết là
do đảng cộng sản của Hồ Chí Minh chủ động, nghĩa là 1--
Một đàng, dứt khoát đứng trên lập trường dân tộc (tức là
không đứng trên lập trường phe phái) cố tranh thủ sự ủng
hộ của Tòa thánh Vatican và Giáo Hội hoàn vũ cho nền độc
lập Việt Nam, cũng như sự ủng hộ của hai cường quốc đồng
minh yêu chuộng tự do là Anh và Mỹ. (NB: Sở dĩ phải kêu
gọi Anh là vì Anh đang giúp Pháp trở lại tái chiếm cựu
thuộc địa Việt Nam. Trong số 5 cường quốc đồng minh đánh
thắng Trục lúc bấy giờ, ngoài Mỹ và Anh ra, thì Liên Xô
là nước cộng sản, Trung Hoa của Tưởng Giới Thạch thì
không có bao nhiêu trọng lượng trên chính trường quốc tế
lúc bấy giờ, Pháp vừa thoát ách thống trị của Đức Quốc
Xã thì lại xua quân đi xâm chiếm lại nước ta!), và 2--
Đàng khác, khẩn khoản vận động quốc tế tránh cho Việt
Nam một cuộc chiến thấy trước là rất tàn bạo và sát hại
vô ích con dân Việt Nam là những người có «lòng ái quốc
anh dũng và không lay chuyển» đang sẵn sàng xông pha ra
trận địa để cứu nước.
Ngoài ra, bức điện văn nói lên bối cảnh kinh tế xã hội
bi đát của đất nước lúc bấy giờ, mà những chứng nhân
thời đại đang còn sống hiện nay đều phải công nhận là
đúng với sự thật. Thứ nhất, Việt Nam «cũng như các nước
khác lúc này phải là lúc lo việc tu tạo những đổ nát,
chứ không phải chồng chất thêm những điêu tàn». Thứ hai,
Việt Nam, do ảnh hưởng tai hại của cuộc Thế Chiến Thứ
Hai, đã là nạn nhân của một nạn đói khủng khiếp tại
nhiều tỉnh ở Miền Bắc làm cho dân số toàn quốc «mười
phần chết mất một». Thứ ba, tiếp theo là ở Miền Bắc
«hiện nay lại thêm cái nạn thủy lạo phá hại đồng ruộng ở
nhiều nơi» và bị đe dọa «rồi ra lại còn đói khổ hơn
trước», bởi vì Việt Nam bị buộc vẫn phải cung cấp lương
thực cho quân đội Đồng Minh (Trung Hoa) và quân phiệt
Nhật Bản (trước và sau tháng 8 là tháng Nhật đầu hàng
Đồng Minh) «đang đóng một số rất đông trên thổ địa Việt
Nam ». Thực trạng chiến tranh và đói khổ trông rất bức
xúc và thiết thực nói trên lẽ ra có thể tránh được, nếu
người Pháp thành tâm nhìn nhận nền độc lập của dân tộc
Việt Nam.
Điện văn này cho thấy 4 giám mục người Việt (nhân danh
cộng đồng tín hữu Việt Nam lúc bấy giờ) đã chính thức
coi nền độc lập dân tộc là đã dứt khoát thuộc về đất
nuớc Việt Nam rồi. Thực vậy, ở phần cuối, các ngài Giám
Mục đã thống thiết kêu gọi một lần nữa Giáo Hội La Mã
lưu tâm đến xứ truyền giáo Việt Nam, và 2 cường quốc
«hào hiệp Anh-Mỹ, xin hãy can thiệp ngay để chúng tôi
thoát nạn binh đao ghê gớm, hãy tỏ mối thịnh tình ủng hộ
cho nền Độc lập chúng tôi: lòng quảng đại ấy đời đời
chúng tôi sẽ ghi nhớ.» Xin thử hỏi lúc bấy giờ có ai hay
tổ chức nào khác tại Việt Nam có tư cách và có khả năng
lên tiếng đánh động dư luận thế giới, như 4 vị giám mục
VN đã làm? Kết quả ra sao của việc lên tiếng này là một
chuyện khác, nhưng chính hành vi này đã minh họa lòng
yêu nước đã nung nấu giới công giáo việt nam trong suốt
thời kỳ thực dân Pháp đô hộ và bừng cháy lên với Tuyên
ngôn độc lập ngày 2 tháng 9 năm 1945.
Được biết rằng những lời kêu gọi tha thiết này không
phải do chính phủ Việt Minh thời ấy gợi ý hay áp đặt, mà
chính là do sáng kiến và lòng yêu nước nồng nàn của vị
«giám mục tiên khởi Nguyễn Bá Tòng», người gốc Gò Công,
được phong chức giám mục vào năm 1930, và là niên trưởng
trong hàng giáo phẩm người Việt, lúc bấy giờ vận động 3
vị giám mục người Việt kia cũng là những vị rất yêu nước
để cùng đồng thanh lên tiếng chung trong hai bức điện
văn nói trên. Dĩ nhiên, việc làm này có tính cách riêng
tư, cẩn mật, và có thể không làm vừa lòng các đấng giám
mục người Pháp chút nào.
Trong giới công giáo lúc bấy giờ, dĩ nhiên là không có
một sự hướng dẫn mục vụ chính thức nào đến từ các vị Chủ
Chăn và giới giáo sĩ Pháp và Việt, nhưng hành động can
đảm (có thể nói là «cách mạng») của 4 vị giám mục VN như
nói trên đã tự nó có một giá trị «hướng dẫn mục vụ» và
động viên mạnh mẽ tinh thần yêu nước của giới công giáo
VN. Ngoài Bắc, giới lãnh đạo Thanh Lao Công như Nguyễn
Mạnh Hà[26], Nguyễn Đình Đầu và rất nhiều linh mục tu sĩ
như Lm Phạm Bá Trực đã hăng hái đứng lên vận động người
công giáo tham gia cứu nước. Trong Nam, đã có những linh
mục như cha Kính, cha Sang và cha Luật đã hết mình ủng
hộ phong trào Việt Minh và dứt khoát theo đoàn quân
kháng chiến đi vào bưng biền.
Ai dám bảo người công giáo lúc bấy giờ không hòa mình
với toàn dân nhiệt liệt tán thành nền độc lập mỏng manh
vừa mới thu hồi và sẵn sàng tham gia kháng chiến chống
đế quốc thực dân Pháp trở lại, cho dù từ trong đấy lòng
vẫn rất yêu chuộng hòa bình và cũng rất ái ngại phải sát
cánh với Việt Minh trong Mặt Trận Cứu Quốc, vì Việt Minh
được giới công giáo biết ngay từ đầu là một mặt trận do
Cộng Sản Đệ Tam Quốc Tế điều động và chế ngự. Chính đế
quốc thực dân Pháp đẩy người công giáo việt nam vào bức
chân tường, khi ngoan cố dùng vũ lực tái chiếm Việt Nam.
Cứ theo truyền thống yêu nước của dân tộc, người con
hiếu thảo phải tìm hết mọi cách để cứu mạng «cha mẹ»
mình, cũng như phải xả thân cứu nước. Tục ngữ có câu:
«Giặc đến nhà, đàn bà phải đánh!»
2.3— Thư chung 1951 (và kế tiếp) đã xâu xé lòng người
công giáo như thể muốn cấm đoán họ không được yêu nước
theo truyền thống ngàn đời của dân tộc Việt Nam, và đặt
họ trước một sự chọn lựa vô cùng khó khăn và bi đát. Tuy
nhiên, người công giáo đã can đảm chọn đứng về phía lẽ
phải!
Thư chung 1951 -- Số là đang khi cuộc chiến tranh
Pháp-Việt nổ ra từ ngày 19.12.1946 tới hồi cam go, nhất
là sau khi Trung Hoa lục địa đã rơi vào tay Đảng Cộng
Sản Trung Quốc năm 1949 và đang khi có triệu chứng biến
Việt Nam thành con cờ thí cho cuộc tranh chấp ý thức hệ
giữa hai khối tự do và cộng sản trên thế giới, lúc bấy
giờ các Giám mục Đông Dương đã công bố một Thư chung
ngắn gọn[27], sau kỳ họp tại Hà Nội từ ngày 5 đến 10
tháng 11 năm 1951, nhằm vạch ra đường hướng mục vụ cho
giáo dân với những lời lẽ rất sắc bén, rõ ràng và sáng
suốt về nạn cộng sản vô thần đang mưu đồ đặt ách thống
trị của họ trên Việt Nam.
Dĩ nhiên, trong lúc toàn dân cần được động viên toàn lực
để kháng chiến chống đế quốc thực dân Pháp tái chiếm
Việt Nam, Thư chung này đã gây ra nhiều phản ứng trái
ngược trong giới công giáo việt nam và đã thực sự dằn
vặt, xâu xé tâm can yêu nước của họ từ đó mãi về
sau[28]. Hơn tất cả những thành phần nào khác của dân
tộc Việt Nam (ngoài các đảng phái chính trị, dĩ nhiên),
thành phần công giáo việt nam ngay từ đầu đã vô cùng
thao thức, xót xa, trằn trọc, đau khổ với ý thức sâu sắc
là phải cố làm sao, một đàng, giữ gìn Đất Nước Việt Nam
luôn là của người việt nam và cho người việt nam, chống
lại sự can dự của ngoại bang. Và đàng khác, là làm sao
dành được độc lập cho Quê hương Việt Nam mà khỏi bị ách
thống trị cộng sản, đang khi tuyệt đại đa số người con
dân Việt Nam bị đặt ngay từ năm 1945 trong tình huống
phải chấp nhận đấu tranh dành độc lập ở bên trong hàng
ngũ Mặt Trận Việt Minh. -- Kể cả ngoài Mặt Trận Việt
Minh, như trường hợp chính phủ Bảo Đại thân Pháp, hoặc
như khu tự trị Phát Diệm-Bùi Chu của giáo dân công
giáo!-- Và nhất là làm sao giữ cho cuộc chiến tranh dành
độc lập không biến thành cuộc chiến tranh tương tàn? Oái
oăm là thế đấy!
Thư chung 1951 đã mở đầu với việc xác nhận lòng yêu nước
là một nhân đức kitô giáo mà người tín hữu công giáo cần
phải vun trồng, đang khi cũng cần phải tôn trọng quê
hương của các dân tộc khác gồm những con nguời được Chúa
yêu thương như chúng ta. Suy diễn ra, người công giáo
việt nam vẫn thấy mình có quyền tiếp tục đánh đuổi thực
dân Pháp, đang khi vẫn quí trọng nhân dân Pháp và các
thừa sai Pháp!… Tiếp theo, Thư chung giảng giải với
những lời lẽ rất nghiêm trọng và đầy xác tín rằng bổn
phận yêu nước chân chính là đừng để mình mắc mưu cộng
sản là những kẻ đầy mưu mô quỉ quyệt, đội lốt ái quốc để
lợi dụng lòng yêu nước của đồng bào hầu đạt mục tiêu áp
đặt ách thống trị độc tài chuyên chính trên đất nước
Việt Nam, và tiếp tục dùng chiêu bài yêu nước để củng cố
quyền lợi của đảng cộng sản mà thôi. Một khi đã nắm
chính quyền, họ tịch thu tài sản, khủng bố, áp bức và
bách hại người công giáo… Hãy kháng cự ngay từ bây giờ,
đừng để bị lường gạt. Hãy tỉnh thức, can đảm, vững tin
và trung thành với Thiên Chúa. Và hãy thực hành đức công
bình và đức ái, thứ tha và muốn điều lành cho người
khác. Những đường hướng mục vụ trên đây có tính thuyết
phục rất mạnh mẽ đối với người tín hữu; xin trích dẫn
một vài đoạn sau đây:
«Anh em rất thân mến, xao xuyến trước những suy nghĩ hàm
hồ tràn lan, chúng tôi thấy có bổn phận phải xác định rõ
thế nào là ái quốc. Ái quốc, hay yêu nước, là yêu quê
hương, yêu quê cha đất tổ. Vậy Quê hương chính là gia
đình mở rộng. Cả hai đều là đối tượng của đức hiếu. Vì
thế, chúng tôi thấy cần phải khích lệ và vun trồng lòng
yêu nước giống như mọi nhân đức kitô giáo khác. Quan
niệm Quê hương nơi người tín hữu kitô không loại trừ Quê
hương của những dân tộc khác, mà Chúa dạy chúng ta phải
yêu thương, vì chúng ta tất cả đều là con cái Chúa.»[29]
Thư chung tiếp: «Vì tinh thần trách nhiệm quan trọng
trước Thiên Chúa, vì mối tình tha thiết yêu quý anh em,
chúng tôi thấy mình có nhiệm vụ quan hệ phải loan báo
cho anh em biết đề phòng nạn cộng sản vô thần duy vật,
một nguy cơ trầm trọng nhất thời nay. Chủ nghĩa cộng sản
bác bỏ Thiên Chúa, bác bỏ mọi tôn giáo, bác bỏ thuyết
linh hồn hằng sống, bác bỏ tất cả quyền lợi của nhân vị
và gia đình. Chủ nghĩa cộng sản xung khắc tuyệt đối với
công giáo đến nỗi Đức Thánh Cha[30] đã tuyên bố rằng:
Không bao giờ có thể vừa theo cộng sản vừa theo công
giáo được, và người công giáo nào gia nhập đảng cộng sản
thì lập tức bị khai trừ khỏi Giáo hội. Chẳng những không
được gia nhập đảng cộng sản, mà lại anh em không thể
cộng tác bất kỳ dưới hình thức nào, có thể giúp đỡ họ
nắm chính quyền.»[31]
Chắc hẳn chính phủ kháng chiến Việt Minh lúc bấy giờ coi
Thư chung này là một tuyên ngôn chống cộng công khai đầu
tiên của hàng giáo phẩm công giáo Đông Dương, trong đó
ngoài 5 giám mục việt nam ra là GM Vĩnh Long Ngô Đình
Thục, GM Phát Diệm Lê Hữu Từ, GM Bùi Chu Phạm Ngọc Chi,
GM Bắc Ninh Hoàng Văn Đoàn, và GM Hà Nội Trịnh Như Khuê
[32], người ta thấy còn có vị Khâm sứ Tòa thánh Gioan
Dooley, 5 vị giám mục người Pháp, và 3 vị tu sĩ người
Pháp làm nhiếp chánh và tổng quản các giáo phận Hải
Phòng, Kontum và Thái Bình. Và đối với chính phủ Việt
Minh, cũng có thể Thư chung này được đánh giá là một sự
xen lấn vào chuyện nội bộ của Việt Nam từ những hàng
giáo phẩm ngoại quốc (mà đa phần thuộc đế quốc thực dân
Pháp) đang lãnh đạo GHCGVN.
Còn theo dư luận chính thức của giới công giáo việt nam
lúc bấy giờ, những lời lẽ cảnh cáo nghiêm trọng nói
trên, cho dù có thể phần nào gây nhức nhối nơi lòng
người tín hữu công giáo khi nghĩ rằng các vị thừa sai
Pháp không thể hiểu được tình hình đất nước Việt Nam như
người việt nam, nhưng những lời hướng dẫn chân tình ấy
chủ yếu vẫn được tiếp nhận như đến từ vai trò của các
Chủ Chăn trong phạm vi tôn giáo của mình. Vả lại, cho dù
các Giám mục Đông Dương lúc bấy giờ có chú giải lập
trường của Tòa Thánh La Mã một cách quá cứng nhắc và
giáo điều, đến mức người công giáo việt nam lo ngại cho
những người tín hữu đang tham gia công cuộc kháng chiến
dành độc lập trong Mặt trận Việt Minh có thể mặc nhiên
bị «dứt phép thông công», nhưng Đức tin mạnh mẽ, sự nhận
định sáng suốt, lòng yêu nước sâu sắc và tinh thần kỷ
luật đã giúp những người có trọng trách trong giới tín
hữu biết quí trọng và tuân giữ những lời hướng dẫn trên.
Thật ra, không phải mới từ năm 1951, mà ngay từ năm
1945, người tín hữu công giáo việt nam cảm thấy xót xa
da diết với tình cảnh ngang trái của Đất nước là vừa
phải tranh thủ dành độc lập, lại vừa phải chống lại ảnh
hưởng của làn sóng cộng sản vô thần đang dương cao ngọn
cờ giải phóng dân tộc để đặt ách thống trị trên Quê
Hương Việt Nam.[33]
Thư chung 1952 -- Để chống lại thuyết cộng sản vô thần,
Thư chung 1952 nhấn mạnh đến học thuyết xã hội công
giáo, lấy con người làm đối tượng và cứu cánh phục vụ
của xã hội dân sự, và xác nhận từ quan điểm hữu thần của
mình rằng «chỉ có quan niệm về loài người theo như tinh
thần đạo Công Giáo mới có thể dùng làm nguyên tắc cho
việc tái tạo xã hội.»[34] Nói đến vấn đề tư bản và lao
động, Thư chung 1952 xác nhận « Hội thánh dạy rằng: Tư
sản là một thực quyền phát nguyên từ nhân vị, muốn phá
tư sản tức là đồng thời muốn hủy hoại trật tự trong xã
hội»[35] Tuy nhiên, quyền tư sản này không phải là vô
hạn, mà phải được sử dụng hợp lẽ, vừa có lợi cho bản
thân mình và vừa có lợi cho công ích. Cần phải tổ chức
một xã hội dân sự công bình hơn, có những bảo đảm xã hội
và những sự chăm sóc chu đáo hơn lớp người nghèo khó.
Các Giám mục khuyến khích người tín hữu tham gia Công
Giáo Tiến Hành là cơ cấu dành cho người giáo dân dấn
thân vào việc sống đạo giữa trần thế và phục vụ công
ích.[36]
Thư chung 1953 hướng dẫn phương cách nhập thế của người
tín hữu khi xác nhận «một người công giáo làm tròn bổn
phận người công giáo thì cũng là một người công dân đầy
đủ vậy», và «người công giáo vì là công dân trong xã hội
được tự do nhập đoàn thể hay đảng phái chính trị họ thấy
am hợp, miễn là những đoàn thể đảng phái đó trong tôn
chỉ hay trong chương trình hoạt động không có gì phản
trái với một lương tâm công giáo sáng suốt». Đang khi
đó, Hội thánh vẫn là một « đoàn thể hoàn toàn tôn giáo
(…) và không bao giờ có ý nghĩa Hội thánh là một đoàn
thể chính trị», cũng như «đối với mọi đảng phái Hội
thánh giữ trung lập một cách chính đáng». Còn các linh
mục thì «không được gia nhập một đảng phái chính trị
nào»[37] Chúng ta thấy rõ rằng lúc bấy giờ, đứng trước
hoàn cảnh đất nước rối ren, chiến tranh tàn khốc giữa
một bên là chính phủ Việt Minh chống Pháp và bên kia là
chính phủ Pháp xâm lăng (và về sau là Liên Hiệp Pháp
dưới danh nghĩa chính phủ Bảo Đại hợp tác với Pháp),
trong lúc Cộng Đồng Dân Chúa, với tư cách là tín hữu
Việt Nam, bị dằn vặt xâu xé trong tâm can mình, … thì
hàng giáo phẩm đưa ra đường hướng mục vụ có tích cách
khái quát để cho mỗi tín hữu tùy nghi áp dụng vào hoàn
cảnh thực tế của mình.
Thực vậy, đang khi người công giáo Miền Nam nói chung,
tuy sống dưới sự cai trị tương đối dễ dãi của chính phủ
thuộc địa Pháp thông qua các chính quyền Saigon thân
Pháp, nhưng vẫn tiếp tục chia sẻ hoài bão chung của dân
tộc là đánh đuổi giặc ngoại xăm và dành lại độc lập cho
Đất nước, nên vẫn ngấm ngầm có thiện cảm với Mặt Trận
Cứu Quốc Việt Minh (theo nhận định riêng của người
viết), thì đa số người tín hữu ở Miền Bắc đã có những
kinh nghiệm cay đắng với đảng cộng sản việt nam đội lốt
chính phủ kháng chiến Việt Minh. Đại khái, Miền Bắc đã
trở thành căn cứ địa kháng chiến vững mạnh nhất nước để
chống cự lại sức tấn công của Liên Quân Pháp, và dân
chúng của hầu hết các vùng nông thôn đều nằm dưới sự
kiểm soát nghiêm nhặt của Việt Minh. Đa số giáo dân công
giáo cũng sinh sống ở các vùng bị Việt Minh kiểm soát,
nên thấy rõ những thủ đoạn mị dân, gian giảo, tàn ác và
độc tài của cộng sản. Sống Phúc Âm giữa lòng dân tộc,
người công giáo không thể dửng dưng chấp nhận đường lối
trí trá của cộng sản dương cao ngọn cờ cứu quốc làm bình
phong để thẳng tay bóc lột, hà hiếp, đàn áp, áp đặt
cường quyền, khủng bố tinh thần và sát hại dân lành một
cách tàn bạo và vô tội vạ. Nhất là trong chiến dịch cải
cách ruộng đất vô cùng dã man khởi đầu từ cuối năm 1953
trở đi, các cán bộ đã dùng mọi mánh lới thô bạo nhằm
xách động lòng căm thù của giới cùng đinh đứng lên đấu
tố giới địa chủ, bắt ép và xúi dục con tố cha, vợ tố
chồng, tạo ra một không khí khủng bố tinh thần và thể
xác rùng rợn sắt máu trên khắp Miền Bắc Việt Nam.
Chính nhờ thấy rõ bộ mặt hiện thực của cộng sản, nên
ngay từ năm 1948, tại giáo phận Bùi Chu và Phát Diệm đã
hình thành một phong trào liên tôn chống cộng. Và cho
đến năm 1949 đã có những cuộc xích mích, xung đột khá
nghiêm trọng giữa chính quyền kháng chiến địa phương với
Liên Đoàn Công Giáo là một hình thái tổ chức thanh niên
công giáo bảo vệ xóm làng… Tại giáo phận Phát Diệm, Đức
Cha Lê Hữu Từ, một nhân vật rất yêu nước như nói ở trên,
tuy đã được Hồ Chí Minh chiếu cố mời làm cố vấn chính
phủ, nhưng Ngài vẫn không tin tưởng ở lòng chân thành
yêu nước của chính phủ HCM cũng như Ngài vẫn chống đối
âm mưu tiêu diệt các thành phần tôn giáo trong nước của
chính phủ này.
Chính Giám mục Lê Hữu Từ đã lấy sáng kiến chủ trương một
«con đường thứ ba», vừa không theo Pháp và cũng vừa
không theo Việt Minh, khi biến giáo phận Phát Diệm của
Ngài thành một khu tự trị với Liên Đoàn Công Giáo Việt
Nam làm thành lực lượng Công Giáo Cứu Quốc (chiến khu
Công Giáo hay khu an toàn Phát Diệm) kể từ năm 1950, để
chờ đợi một tình thế sáng sủa hơn cho sự thành hình một
chính thể quốc gia độc lập với Pháp.[38] Giám mục Phạm
Ngọc Chi của giáo phận Bùi Chu cũng hành động tương tự.
Từ khi có chính phủ Bảo Đại năm 1949, các Ngài có nhận
sự tiếp tế vũ khí của phe quốc gia thân Pháp này để tự
vệ, cho đến khi có Hiệp Định Genève. Đó là một cách thế
dấn thân yêu nước rất táo bạo, liều lĩnh, đầy hiểm nguy,
độc nhất vô nhị ở Miền Bắc của phía công giáo Bùi Chu và
Phát Diệm, đang khi các đảng phái quốc gia cũng đành
chấp nhận «trùm chăn» (thúc thủ) trong giai đoạn đầy
biến loạn này.
Cuối cùng, Hiệp Định đình chiến Genève 1954 ký kết giữa
Pháp và Việt Minh áp đặt lên dân tộc Việt Nam một sự
phân thân thê thảm với những hệ quả độc hại; đó là đặt
một đường ranh quân sự tạm thời để rồi trở thành một
đường ranh chính trị chia đôi hai miền đất nước kình
chống nhau, đưa đến nạn binh đao khói lửa ngút ngàn
trong suốt 20 năm sau! Hiệp định này cho phép một số
đông tín hữu công giáo di cư vào phần đất dưới vĩ tuyến
17, để rồi sau đó cùng với dân chúng Miền Nam thiết lập
một chính thể Việt Nam Cộng Hòa dưới sự lãnh đạo của
Tổng thống (người công giáo) Ngô Đình Diệm. Cuộc di cư
vĩ đại này đánh dấu một bước ngoặt lớn trong cách yêu
nước và hòa nhập với thân phận Đất Nước của GHCGVN. Từ
đấy, người công dân công giáo tuy vẫn là thiểu số lại
bỗng dưng trở nên thành phần nòng cốt, đứng mũi chịu
sào, quyết liệt chống cộng cho đến giọt máu cuối cùng vì
tiền đồ dân tộc và đất nước…
Thật ra, cũng như toàn dân Việt Nam, giới tín hữu công
giáo rất đau đớn với thân phận đất nước bị chia đôi, mà
một nửa trên bị đặt dưới ách thống trị của chế độ cộng
sản độc tài tàn bạo. Trong vòng hai năm 1954-1955, có
860 ngàn người Miền Bắc đã khước từ sống dưới chế độ
cộng sản và bằng mọi giá tìm cách di cư vào Nam, trong
đó có khoảng 676 ngàn là công giáo, tức bằng 45% tổng số
giáo dân phía Bắc vĩ tuyến 17. Dưới sự hướng dẫn của
hàng giáo phẩm (5 Giám mục và 700 Linh mục), họ đành
đoạn ra đi để mong có ngày trở lại giải phóng Quê hương.
«Số đông giáo sĩ, tu sĩ nam nữ (…) di cư vào miền Nam;
Giáo hội Miền Bắc còn lại trong 10 giáo phận có 7 Giám
mục, 374 linh mục và số ít tu sĩ phục vụ 750.000 tín
hữu.»[39] Từ đó, Giáo hội Miền Bắc, như một thân thể bị
«xuất huyết» và bị «trù dập» nghiêm trọng, đã trở thành
một giáo hội thầm lặng và bị chia cắt hoàn toàn với Giáo
Hội Miền Nam, đang khi Giáo hội Miền Nam phát triển mạnh
về mọi mặt. Cái đau của người công giáo, ngoài chuyện
đất nước bị chia đôi, còn là cái đau của một giáo hội bị
phân thây xót xa đến như thế …
2.4-- Thư Chung 1960 của các Giám Mục MN về vấn đề cộng
sản vô thần đã chủ trương một chính sách đương đầu,
quyết liệt chống mưu đồ bành trướng của cộng sản vô thần
về phía nam (với sự xuất hiện của Mặt Trận Giải Phóng
Miền Nam).
Với Sắc chỉ Venerabilium Nostrorum ngày 24.11.1960 thiếp
lập phẩm trật Giáo Hội tại Việt Nam[40], Đức Giáo Hoàng
Gioan XXIII đã quyết định với «hiệu lực tức khắc» phân
GHCGVN ra thành 3 giáo tỉnh Hà Nội, Huế và Saigon, do
các Giám Mục Việt Nam lãnh đạo với «mọi quyền lợi, danh
dự, đặc ân thích ứng», nhưng «sẽ tiếp tục trực thuộc
Thánh Bộ Truyền Giáo». Sắc chỉ này được ban bố sau khi
có Thư Chung ngày 02.03.1960 của 10 Giám mục Miền Nam,
trong đó có 6 GM VN là các ĐC Ngô Đình Thục, Lê Hữu Từ,
Phạm Ngọc Chi, Trương Cao Đại, Nguyễn Văn Hiền và Nguyễn
Văn Bình, gởi cho tín hữu Miền Nam cảnh cáo rất nghiêm
trọng hiểm họa cộng sản vô thần đang đe dọa tràn ngập
thế giới và kêu gọi người tín hữu công giáo hãy ra sức
phấn đấu sống trung thực tinh thần Phúc Âm trong lòng
dân tộc để cứu vãn Quê hương…Đã đến lúc GHCGVN quyết
liệt chủ trương đương đầu với sức công phá ngấm ngầm và
công khai của đảng CSVN chăng?
Thư Chung nhấn mạnh đến hiểm họa tiêu diệt tôn giáo do
khối CS quốc tế mà đứng đầu là Liên Xô chủ động, nói
rằng: «Mối hiểm họa này càng trầm trọng hơn ở chỗ việc
tiêu diệt tôn giáo được lãnh đạo và bảo trợ do cả một cơ
quan quốc tế có một hệ thống tổ chức rất mực chặt chẽ là
Cộng sản vô thần.»[41] Đại khái, Thư Chung 1960 nói lên
một cách mạnh mẽ quan niệm tiền Công Đồng Vatican II đối
với việc chống cộng sản vô thần đang thịnh hành, lúc mà
trên thế giới đang có cuộc chiến tranh lạnh giữa hai
khối Cộng sản và Tư bản. Vô hình chung, GHCGVN bị tình
thế đưa đẩy vào một thế chống cộng vượt xa mức luân lý
tôn giáo, tức là quyết liệt chọn lựa đứng về phía «chính
nghĩa quốc gia» và «chính nghĩa tự do» để phục vụ dân
tộc?
Trong khi Miền Nam phải tự bảo vệ mình và cùng lúc ấy
phải làm tiền đồn của thế giới tự do chống Làn Sóng Đỏ
lăm le tràn xuống từ phương Bắc, Thư Chung 1960 lớn
tiếng cảnh tỉnh người tín hữu bằng cách lên án gắt gao
cộng sản vô thần với những lời phê phán nặng nề và những
luận cứ quyết liệt chưa từng thấy. Tựu trung, đảng Cộng
sản VN được coi như một đảng vô luân và phi nghĩa, đầy
dã tâm và nham hiểm, chủ trương duy vật vô thần, hoàn
toàn đối nghịch với «tất cả những gì là tinh thần, siêu
nhiên, tín ngưỡng, hoặc đạo lý; nói thể khác, nó hoàn
toàn đối nghịch với chân lý nói chung, và học thuyết
công giáo nói riêng.»[42] Thể theo Thông Điệp Divini
Redemptoris của Đức Piô XI, Thư Chung tố giác Cộng sản
vô thần: --chủ trương xách động lòng căm thù giai cấp để
đấu tranh giai cấp một cách dã man, hèn hạ xấu xa;
--tước đoạt mọi quyền tự do và phẩm giá của con người,
kể cả quyền tự do tín ngưỡng; --chối bỏ mọi trật tự và
quyền bính tự nhiên cũng như siêu nhiên, trong gia đình,
xã hội và Giáo hội; --và chối bỏ quyền tư hữu khiến cho
con người hoàn toàn bị cô lập và nộ lệ.[43]
Hơn nữa, Thư Chung đặt mức cảnh giác cao độ ngay bên
trong hàng ngũ tín hữu công giáo, khi tố giác rằng Cộng
sản dùng mọi mánh khóe xảo quyệt, tráo trở, gian dối hầu
«trà trộn vào các cơ quan công giáo để thi hành thủ đoạn
bám địch để giết địch. Họ tìm cách len lỏi vào nội bộ
của ta để dò xét, tuyên truyền, chia rẽ, phá hoại, bằng
cách giả là những phần tử sốt sắng, nhiệt thành, niềm nở
và cố chiếm đoạt quyền điều khiển»[44] cũng như «thâm
nhập trong hết mọi ngành tổ chức của Giáo hội, kêu gào
ủng hộ hòa bình»[45] Đã thế, Thư Chung còn răn đe bằng
những kinh nghiệm đã có trong các nước cộng sản, rằng
«họ cố sức giả vờ ủng hộ Công giáo, bằng cách nêu cao
khẩu hiệu tự do tín ngưỡng, nhất là lập những hội cho
người công giáo như là Hội những người kính Chúa yêu tổ
quốc ở Bắc Việt (…) và tệ hơn nữa còn dùng chính những
hội ấy để tố cáo, bắt bớ, lên án, phá hoại các phẩm trật
trong Giáo hội. (…) Họ nấp sau chiêu bài ‘Ái Quốc’…để
tìm cớ buộc tội phản quốc, trục xuất, giam giữ, hoặc
tiêu diệt những ai trung thành với Giáo hội, rồi tự đặt
ra những Giám mục mới, không còn tuân lệnh và liên lạc
với chính quyền (sic) La Mã.»[46] Người công giáo biết
rõ thực tế này đang xảy ra ở Trung Cộng lúc bấy giờ… Các
giám mục Miền Nam yêu nước đến mức dám mở rộng cửa cho
những sự xét nét, ngờ vực, nghi kỵ, chia rẽ, tố cáo lẫn
nhau là «giáo gian» tràn ngay vào bên trong hàng ngũ
công giáo, và kiềm hãm quyền tự do chọn lựa chính trị
của người tín hữu công dân. Cùng với thân phận chung đất
nước, óc bè phái, chia rẽ, cấm kỵ, kết án nhau, đã len
lỏi vào giữa cộng đồng dân Chúa cho đến mãi về sau này,
làm băng hoại sự tin cậy và hiểu tốt cho nhau. Oái oăm
là thế!
Thư Chung khẳng định không bao giờ Công giáo có thể đội
trời chung với Cộng sản, khi nói: «Để đánh lừa những
người ngây thơ, dễ tin, người ta đã dám công khai tuyên
truyền thuyết sống chung tưởng như có thể có sự sống
chung giữa sự lành và sự dữ, giữa nhân đức và tội ác,
giữa Thiên Chúa và ma quỷ. Nhưng anh em phải biết sự
sống chung ấy không thể thực hiện được. Đức Thánh Cha
Gioan XXIII đã nói: ‘Nền hòa bình mà Giáo hội tha thiết
kêu gọi không được coi như là sự nhượng bộ và thiếu
cương quyết trước những lý thuyết hay những cách sống đi
ngược hẳn lý thuyết công giáo. Giáo hội yêu hòa bình
không có nghĩa là Giáo hội nhửng nhưng trước những tiếng
than khóc thống thiết đang vang dội đến Ta từ những nơi
mà quyền lợi con người không được đếm xỉa đến, nơi mà sự
nói dối được tổ chức quy mô’ (Thông điệp Giáng sinh…
23.12.1959) »[47]
Đấy, các Giám mục Miền Nam lúc bấy giờ yêu một đất nước
bị đe dọa bởi hiểm họa cộng sản và lo sợ Miền Nam bị
thôn tính do những mưu đồ cực kỳ quỉ quyệt của họ… đến
mức các Ngài coi người cộng sản bằng xương bằng thịt
chính là «sự dữ», «tội ác», «ma quỷ». Từ cái nhìn phân
cực tuyệt đối như vậy, các Ngài chủ trương người công
giáo không để mình bị gạt gẫm bởi những luận điệu hòa
bình, chung sống của họ, cũng như các Ngài chủ trương
không nhượng bộ, hòa hoãn với họ. Nói thẳng ra, chỉ còn
có con đường là loại trừ họ, tiêu diệt họ bằng chiến
tranh mà thôi. Và từ đó suy ra, ta có thể nói các Ngài
bảo thà chấp nhận chiến tranh tương tàn, chớ không chịu
đội trời chung với người cộng sản. Suy diễn thêm ra, ta
phải hiểu rằng các Ngài muốn cấm người công giáo không
được chủ trương hay kêu gọi hòa bình, hòa giải, chung
sống với người cộng sản! Kêu gọi như vậy tức là mắc mưu
cộng sản… Đấy, yêu nước điên dại đến như thế là tận cùng
rồi…, còn gì để nói nữa đâu! Còn có cách nào yêu nước
khác hơn chăng?
Thực vậy, Thư Chung 1960 kêu gọi phải dứt khoát bài trừ
chủ nghĩa duy vật vô thần; hơn nữa, ra lệnh cấm người
công giáo không được gia nhập đảng Cộng sản, cấm đọc,
xuất bản và phổ biến sách báo có lợi cho lý thuyết và
hành động của Cộng sản. Nếu vi phạm những điều nói trên,
người tín hữu sẽ mắc vạ tuyệt thông, như Thư Chung 1951
đã xác nhận. Hãy tỉnh táo học hỏi kỹ những huấn thị và
tài liệu của Hội thánh, đoàn kết chung quanh một Chúa
chiên chính thức, luôn hiệp thông với Giáo hội «là Thân
Thể Mầu Nhiệm Chúa Giêsu»[48] Nhìn từ con mắt của người
cộng sản, đây là một bản tuyên chiến của hàng Giám mục
Miền Nam đối với họ, biến Giáo hội thành một thành trì
chống cộng của Việt Nam Cộng Hòa. Nhưng nhìn từ con mắt
người tín hữu, đây là những điều hướng dẫn mục vụ sáng
suốt mà mỗi người phải học nằm lòng và quyết tâm thi
hành, để phục vụ hữu hiệu dân tộc và đất nước, cho dù
vẫn cảm thấy như có cái gì đó chưa được ổn trong suy
nghĩ. Và trong tâm tư, người công giáo vẫn thấy không
yên tâm; lòng dạ họ thì cứ như tan nát bời bời…mãi cho
đến ngày nay.
2.5- Từ 1963, có một chuyển hướng rõ rệt trong đường
hướng mục vụ thể theo tinh thần Công Đồng Vatican II :
sống Phúc Âm trung thực và khiêm nhu với mọi người, tôn
trọng con người cho dù họ nghĩ khác mình, và giữ vững sự
đoàn kết quốc gia trong hoàn cảnh Đất nước bị xâu xé,
băng hoại.
Văn thư 08.11.1963 -- Ngay sau khi kết thúc một khóa họp
Công Đồng Chung (tức Công Đồng Vatican II) tại Tòa Thánh
La Mã, các Giám mục Việt Nam đã gởi một thư đề ngày
08.11.1963 phấn khởi thông báo cho các linh mục Miền Nam
những kết quả học hỏi chung với các Giám mục thế giới.
Thứ nhất, Giáo hội ngày nay chủ trương canh tân bằng
cách trở về nguồn: «Ngày nay toàn thể Giáo hội đang tìm
cách canh tân để trở nên giống với Giáo hội đời các
Thánh Tông đồ»[49]. Từ đó, Giáo hội tái xác nhận mạnh mẽ
theo «dự án tín lý về Giáo hội» rằng các Giám mục là
những kẻ kế vị các Tông đồ, có quyền bính tông đồ trong
địa phận mình, làm công bộc của giáo dân với sự cộng tác
của các linh mục. Các giám mục phải nỗ lực hợp tác với
nhau trong một Hội đồng Giám mục toàn quốc, cùng với các
linh mục rao giảng Đức Tin qua Kinh Tin Kính và Lời Hằng
Sống của Chúa (chớ không ba hoa theo ý riêng của mình),
cũng như nhắc nhở giáo dân là những kẻ đã chịu Phép Rửa
đều có nhiệm vụ làm tông đồ giáo dân bằng việc truyền
giáo trực tiếp và bằng đời sống chứng đạo chân thực của
mình…[50] Ngày nay nhìn lại những điều xác quyết này, ta
không thấy có gì mới lạ cho lắm; nhưng ở vào thời điểm
ấy, những xác quyết này của Công Đồng Vatican II thật là
cách mạng… và đưa đến những hệ quả rất to lớn trong Giáo
Hội toàn cầu…
Ngoài ra, văn thư nói trên còn bập bẹ hé mở một đường
hướng mục vụ mới theo tinh thần Công Đồng Vatican II:
«Xưa các Tông đồ, các Thừa sai, đã làm cho thế giới
La-Hy trở lại, ngày nay các Cha cũng có một nhiệm vụ
tương tự. Các Cha hãy tìm ra những danh từ tôn giáo
thích hợp và dễ hiểu, hãy phiên dịch Thánh kinh. Hơn
nữa, hãy dịch Chúa Kitô ra tiếng Việt. Chúng tôi có ý
nói, các Cha hãy cố gắng thấu hiểu tinh thần Chúa Kitô
và làm cho Chúa Kitô có bộ mặt Việt Nam. Đó là những
tinh thần Việt Nam được duy trì và phát triển trên nền
tảng Chúa Kitô, như các vị truyền giáo cho thế giới
La-Hy đã làm xưa.»[51] Phải chăng đây là một cách diễn
dịch còn mộc mạc của khái niệm thần học mà về sau này
được gọi là «hòa nhập văn hóa» (inculturation) như đã
nói ở phần trên.
Thư luân lưu 22.01.1964 -- Trước tình thế hỗn mang đe
dọa đến sự sống còn của đất nước sau khi TT Ngô Đình
Diệm bị lật đổ và ám sát (cùng với ông Cố vấn Ngô Đình
Nhu) và đang khi Việt Cộng đánh phá các ấp chiến lược và
đe dọa tràn ngập nhiều vùng nông thôn, cũng như đã có
xảy ra những sự xung đột giữa người Phật giáo và Công
giáo ở một số nơi (mà dư luận cho rằng do Mỹ xúi giục)
và những cuộc tranh giành quyền lực sống mái giữa các
phe phái (trong đó có mặt người tín hữu công giáo), các
Giám mục Việt Nam đã họp 2 ngày Hội nghị tại Saigon và
ra một Thư luân lưu ngày 22.01.1964 gởi đến toàn thể
giáo sĩ và giáo dân công giáo, nghiêm khắc nhắc nhở tất
cả tín hữu «nghĩa vụ khẩn cấp là phải đoàn kết với nhau»
và hơn nữa «hãy tận lực cố gắng để đoàn kết với nhau cả
trên phạm vi cộng đồng quốc gia».[52] Nhất định không
lấy đố kỵ đáp lại đố kỵ, không lấy căm thù đáp lại căm
thù, không lấy bạo động chống lại bạo động!
Thực vậy, Thư mục vụ này cho thấy có sự ứng dụng tinh
thần Vatican II vào hoàn cảnh thực tế lúc bấy giờ: khẩn
khoản nhắc nhở bổn phận của tín hữu phải sống Phúc Âm
giữa lòng dân tộc, phải biết tự kiểm thảo đối với những
đòi hỏi Phúc Âm, phải canh tân cải hóa tâm hồn mình để
có thể chấp nhận hòa mình với mọi người, biết rằng
«người Công giáo không phải là một ‘lớp’ người ở ngoài
rìa xã hội. Là Việt Nam sống giữa những người Việt Nam,
người Công giáo nhìn nhận hết mọi đồng bào, bất cứ họ là
người thế nào, như là anh em ruột thịt. Trong những
tháng gần đây, có những hoàn cảnh, những ảnh hưởng khác
nhau đã muốn xui nên một tình trạng căng thẳng, tức là
xui nên sự đố kỵ giữa Công giáo và Phật giáo. Và rồi đã
xảy ra những biến cố đau thương.[53] (…) Chúng tôi nhận
thấy một nguy hiểm thực sự cho Tổ quốc chúng ta, nếu cứ
để lan tràn trong dân chúng cái tinh thần sợ sệt, chia
rẽ và tương tranh. Chúng ta phải đem toàn lực, và bất cứ
bằng giá nào, để mưu lấy sự đoàn kết trong đại gia đình
quốc gia.»[54] Tóm lại, phải nhìn nhận như là anh em
ruột thịt hết mọi đồng bào, bất cứ họ là người thế nào,
có tư tưởng và hành động khác mình hay đối nghịch với
mình. Vì họ là con người và là con cái của Chúa. Không
ai được dành độc quyền chân lý và khủng bố tinh thần kẻ
khác, gây ra hoang mang, sợ sệt và những phản ứng tư vệ
quá khích; hãy mưu cầu sự đoàn kết trong đại gia đình
dân tộc…
Trước tình hình xâu xé, chỉ trích, tố cáo nhau thậm tệ
(cách riêng giữa người công giáo và người phật giáo),
Thư mục vụ này nhắc nhở mọi người tín hữu, một đàng,
không để mình bị tê liệt bởi «mặc cảm tội lỗi» vì những
lời cáo buộc này khác đang khi vẫn phải chân thành sám
hối bằng cách đấm ngực mình về những lỗi lầm đã qua của
mình, chứ đừng đấm ngực người khác (sic), và đàng khác,
theo luân lý công giáo, không được trả đũa bằng cách tố
cáo bừa bãi kẻ khác, trái lại là phải bảo tồn tiếng tốt
và danh dự của họ. Và khi cần phải tố cáo thì phải làm
với tinh thần trách nhiệm, vô tư, với kẻ có thẩm quyền.
Thư mục vụ mạnh mẽ lên án phương pháp xách động quần
chúng căm thù, đấu tranh, biểu tình, gây nên bầu khí sợ
hãi, bất an, phá rối trật tự và an ninh công cộng, làm
mất sự tin tưởng và đoàn kết với nhau.[55]
Đáp lại những đòi hỏi đó đây của một số tín hữu muốn
hàng giáo sĩ đứng lên lãnh đạo công cuộc cứu nguy đất
nước, Thư mục vụ khẳng định Giáo hội không phải là một
đảng chính trị ‘công giáo’, mục đích duy nhất và riêng
biệt của Giáo hội thuộc phạm vi tôn giáo, nên giáo hội ở
bên trên và bên ngoài các sinh hoạt chính trị đảng phái,
vì như Chúa Giêsu nói ‘Nước Ta không thuộc về trần gian
này’ (Gn 18, 36). Tuy nhiên, giáo hữu cũng là công dân
của đất nước, có quyền và có nhiệm vụ tham chính… Nhưng
dù hoạt động gì đi nữa, họ phải là những nhân chứng của
Đức Kitô. Vì vậy, người tín hữu phải có «ý thức về người
khác» là người cần được yêu mến và kính trọng như chính
mình, phải «ý thức về công ích xã hội» và hy sinh mình
để phục vụ công ích, và cuối cùng là phải biết sống tự
do, tức là cùng lúc phải chịu đựng và tôn trọng tự do
của người khác (kể cả người khác tôn giáo với mình). Thư
mục vụ chấm đứt bằng một lời khuyên bảo của Chúa Giêsu:
«Chúng con đừng sợ… » (Lc 12, 32)[56]
2.6-- Năm 1966, thể theo tinh thần Công Đồng Vatican II,
cùng với Đức Thánh Cha Phaolô VI, các Giám mục VN kêu
gọi các bên lâm chiến phải tức khắc chấp nhận đến bàn
hội nghị, thương thuyết việc ngưng chiến và tái lập hoà
bình, trong tinh thần tôn trọng công lý và tự do.
Sau phiên họp một tuần từ 30.09 đến 06.10.1966 tại
Saigon dưới quyền chủ tọa của Đức Đặc Sứ Tòa Thánh TGM
Sergio Pignedoli được Đức Thánh Cha Phaolô VI gởi đến
với tư cách đại diện cho Ngài, Hội Đồng Giám Mục Việt
Nam ra Thông cáo ngày 07.10.66 tuyên bố «hoàn toàn hợp ý
với Đức Giáo Hoàng» và «lập lại lời kêu gọi thiết tha»
của Ngài, rằng:
«Nhân danh Thiên Chúa, xin hãy dừng lại! Hãy gặp nhau,
hãy đi đến bàn hội nghị, hãy thành thật thương thuyết.
Chính ngay bây giờ hãy giải quyết các mối bất hòa tranh
chấp, dầu phải chịu chút ít thiệt thòi, vì thế nào rồi
cũng phải hòa giải, nhưng có lẽ với nhiều tai hại tàn
khốc khủng khiếp mà hiện nay không ai lường được».
(Thông cáo trích dẫn tiếp lời Đức Giáo Hoàng) «Tuy nhiên
muốn tái lập Hòa bình, thì Hòa bình ấy phải căn cứ trên
công lý và tự do, phải tôn trọng quyền lợi cá nhân cũng
như của đoàn thể, chẳng vậy Hòa bình sẽ không vững chắc
và lâu dài ». (Hết phần trích dẫn) Bởi vậy chúng tôi kêu
gọi hết thảy mọi người thành tâm thiện chí hãy cùng
chúng tôi nỗ lực đạt tới mục tiêu cao cả ấy. Phần chúng
tôi, cương quyết đem hết khả năng và thiện chí đáp ứng
lời kêu gọi của Đức Giáo Hoàng.»[57]
Lời kêu gọi thống thiết này xảy ra vào lúc mà, theo ý
Đức Thánh Cha và HĐGMVN, chiến cuộc Việt Nam tàn khốc
đến độ lăm le vượt quá mức luân thường đạo lý cho phép,
tức đang trở nên phi nhân, phi nghĩa, tội ác chống lại
con người (nhân loại). Số là vào cuối năm 1963, đế quốc
Mỹ can thiệp thô bạo vào nội tình Việt Nam Cộng Hòa bằng
cách cho phép lật đổ chính quyền dân cử Ngô Đình Diệm
(một chính quyền yêu nước và chống lại ý đồ của Mỹ can
thiệp trực tiếp vào cuộc xung đột giữa hai Miền Đất
nước), làm cho tình hình an ninh ở Miền Nam Việt Nam
(MNVN) bị đe dọa trầm trọng (nhất là phần lớn các miền
nông thôn đã bị Việt Cộng kiểm soát hoặc chế ngự), để
rồi Mỹ lấy cớ tàu Maddox bị tấn công trong Vịnh Bắc
Viêt, đơn phương đổ quân ào ạt vào MNVN vào giữa năm
1965 và đơn phương lãnh đạo một cuộc chiến tranh tàn ác
và ghê tởm nhất thế giới trong lịch sử chiến tranh. Vào
tháng 10.1966 (lúc có Thông cáo này), đã có gần nửa
triệu binh lính Mỹ can dự vào các trận đánh ác liệt ở
MNVN, làm rúng động cả thế giới và khiến cho lương tri
loài người phải xúc động và phản kháng mãnh liệt.[58]
Thông cáo 1966 xác nhận: «Đức Giáo Hoàng luôn tha thiết
đến tình trạng đau thương của dân tộc Việt Nam đang quần
quại trong đau khổ vì chiến tranh. Ngài đã không bỏ qua
một cơ hội nào hay một phương tiện nào có thể, để tìm
giải pháp đem lại Hòa bình cho thế giới và riêng cho
nước Việt Nam thân yêu của chúng ta, ngõ hầu tránh những
điêu tàn khốc hại. Tháng này năm ngoái, tại Liên Hiệp
Quốc, Ngài đã kêu gọi chấm dứt chiến tranh và mọi mầm
mống của nó. Cả thế giới đều xúc động về lời kêu gọi
chân thành này.»
Thông cáo tiếp: «Mới đây, trong Thông điệp về kinh Môi
Khôi (Christi Matris Rosarii 15.09.66) Ngài nhân danh
Thiên Chúa, lớn tiếng ‘kêu gào các nhà lãnh đạo các dân
tộc hãy cố gắng tìm cách dập tắt ngọn lửa chiến tranh và
tiêu diệt nó’. Ngài nói: ‘Các nhà lãnh đạo đang cầm vận
mạng của nhân loại, hãy nhớ rằng mình mang trách nhiệm
rất nặng nề đối với lương tâm’.»[59]
Trong Sứ điệp gởi đến hàng Giám mục, linh mục và giáo
dân VN, (do Đặc Sứ Pignedoli chuyển tay), Đức Giáo Hoàng
xác nhận rằng bổn phận của chức vụ tông đồ của Ngài là
tiếp tục mở những cuộc vận động mới, dùng mọi cơ hội dù
mỏng manh nhất, để đem lại Hòa bình của Chúa trên Quê
hương Việt Nam yêu quí. Ngài nói rõ là Ngài hành động
cho Hòa bình Việt Nam vì «chức vụ tông đồ», «sẵn sàng
cộng tác vô giới hạn và không nhằm một quyền lợi trần
thế nào»[60]
Thông cáo của HĐGMVN cũng nói lên cùng một tâm tình cảm
thương của Đức Phaolô VI: «Với tình âu yếm đặc biệt,
chúng tôi nhớ đến những người bạc phước: nạn nhân chiến
tranh và thiên tai, những gia đình tan nát đang lâm vào
cảnh bất an đói khổ, những cô nhi quả phụ; xin mọi người
biết rằng: chúng tôi thành thật cảm thông và cố gắng xoa
dịu những nổi đau thương khốn khổ ấy; cũng xin nhớ rằng:
những đau khổ mà ta lãnh nhận với tinh thần nhẫn nại (…)
có thể dâng lên Thiên Chúa để xin Người ban Hòa bình cho
Tổ quốc.»[61]
Trong những lời giáo huấn dành cho giáo dân, Thông cáo
nhắc lại bổn phận của người công giáo, là công dân, «hãy
can đảm nhận lãnh trách nhiệm trong mọi lãnh vực xã hội
(…) Trong mọi hoạt động, người công giáo phải nhằm lợi
ích chung của dân tộc, tạo nên hòa khí, tránh mọi va
chạm chia rẽ: thà thiệt mình mà thêm bạn hơn lợi mình mà
thêm thù.»[62] Đấy là tinh thần Phúc Âm: khiêm nhu và
hòa hợp, thêm bạn bớt thù, đặt lợi ích chung của dân tộc
trên lợi ích riêng của mình! Thông cáo 1966 trên đây
phản ảnh đúng tinh thần Công Đồng Vatican II, vừa mới
chấm dứt một năm trước đó.
2.7-- Các giáo huấn mục vụ về vấn đề hòa bình VN của
HĐGMVN trong các thông cáo, thư luân lưu, vào những năm
1968, 1969, 1971 ; lương tâm công giáo buộc phải vận
động cho Hòa bình đích thực và HĐGMVN tỏ ra sẵn sàng.
Thông cáo 05.01.1968 -- Hưởng ứng lời kêu gọi hòa bình
của Đức Thánh Cha Phaolô VI trong ngày «Quốc Tế Hòa Bình
» (QTHB) lần thứ nhất 01.01.1968 do Ngài lập ra[63],
HĐGMVN trong Thông cáo ngày 05.01.1968 đã ngỏ lời thẳng
với các phe liên hệ trong chiến tranh Việt Nam: «Chúng
tôi khẩn thiết kêu gọi đến thiện chí của Chính quyền hai
miền Nam và Bắc, hãy cùng nhau kiến tạo Hòa bình. Nhân
danh Thiên Chúa, xin hãy dừng lại! Hãy gặp nhau, hãy đi
đến bàn hội nghị, hãy thành thật thương thuyết.» v.v….Và
« chúng tôi cũng lập lại lời Đức Giáo Hoàng Phaolô VI
nói ngày 2.5.1967: ‘Phải chấm dứt các cuộc oanh tạc trên
lãnh thổ Bắc Việt và đồng thời cũng phải chấm dứt những
cuộc xâm nhập vũ khí và vật liệu chiến tranh vào miền
Nam’.»[64]
Ở phần đầu của Thông cáo 1968, HĐGMVN đòi hỏi Miền Nam
VN phải canh tân nếp sống mới có thể có hòa bình đích
thực: «Hòa bình vẫn luôn là khát vọng sâu xa của mọi
người, nhất thiết (là) của dân tộc Việt Nam ngày nay.
Nhưng trong hiện tình đất nước thật sự đã có nền tảng
chính yếu để xây dựng Hòa bình chưa? Vì ‘nền tảng căn
bản của Hòa Bình là thành thật, công bình, tự do và bác
ái trong mối bang giao giữa các quốc gia, trong một dân
tộc, giữa những công dân với nhau và với các nhà lãnh
đạo’ (trích Ngày QTHB). Xây dựng Hòa bình là ổn định
trật tự trong con người, tức nhiên là trong xã hội, và
xây dựng Hòa bình là trách nhiệm của tất cả mọi người
công dân trong một nước.»[65] Đòi hỏi này tuy có vẻ
trùng hợp với suy nghĩ truyền thống «tu thân, tề gia,
trị nước, bình thiên hạ», nhưng rất thức thời đối với
một chế độ Miền Nam VN lúc bấy giờ ngổn ngang trăm thứ
bầy nhầy, gian dối, bất công, áp chế, và chủ trương lấy
oán trả oán, lấy hận thù trả hận thù.
Tiếp theo, Thông cáo 1968 đòi hỏi trước tiên người tín
hữu công giáo phải thực hành hòa bình theo huấn dụ của
Đức Thánh Cha trong Thông điệp QTHB nói trên: «Là công
dân nước trần thế và nước Trời, người công giáo phải
thành thật trong mọi hoàn cảnh, có nói có, không nói
không (…), phải triệt để tôn trọng luật công bình (…),
phải hết tâm bảo vệ tự do của kẻ khác cũng như của mình
(…) phải luôn luôn bác ái, yêu người như mình (…); để
góp công cứu nước trong giai đoạn hiện tại, anh chị em
công giáo phải tích cực lành mạnh hóa mọi tầng lớp xã
hội, (…) gây tình đoàn kết giữa đồng bào bằng cách triệt
để sống đời kitô-hữu… »[66]
Để xác nhận rằng lương tâm công giáo đòi buộc người tín
hữu phải tranh thủ Hòa bình, Thông cáo HĐGMVN trích lời
Đức Thánh Cha nói trong Thông điệp QTHB: -- «Hòa bình
thuộc đặc tính của Đạo Chúa Kitô, vì đối với mọi kitô
hữu, tuyên xưng Hòa bình tức là tuyên xưng Chúa Kitô»;
«Người là sự Bình an của chúng ta» (Ep 2, 14). Phúc Âm
của Người là «Phúc Âm Hòa bình» (Ep 6-15). Nhờ lễ tế
trên thập giá, Chúa đã hoàn tất công cuộc hòa giải thế
giới, và chúng ta, những môn đệ Người, được mời gọi «làm
cho người hòa thuận» (Mt 5-9).— Không còn gì rõ ràng
hơn: yêu chuộng hòa bình là một đòi hỏi của luật yêu
thương; tuyên xưng hòa bình tức là tuyên xưng Đức Kitô;
Phúc Âm của Người là Phúc Âm hòa bình, làm cho người
người hòa thuận với nhau…![67]
Hơn một tháng sau Thông cáo «hòa bình» này, Việt Cộng
lợi dụng lúc hưu chiến dịp Tết Mậu Thân 1968 để tấn kích
khắp nơi và tràn ngập hầu hết các thành phố ở Miền Nam
VN, kể cả Huế và Saigon. Cuộc tổng tấn công Tết Mậu Thân
đã hoàn toàn thất bại về mặt quân sự; nhưng là một thắng
lợi về mặt chính trị, buộc chính phủ Mỹ phải vào bàn hội
nghị với Hà Nội để rồi thương lượng chia chác quyền lợi
với nhau trên đầu trên cổ nhân dân Việt Nam. Hòa bình
của Việt nam và hòa bình theo những đòi hỏi của công lý
mà HĐGMVN cũng như Tòa Thánh luôn chủ trương đều có thể
bị đổi chác thành «hòa bình Mỹ» hay «hòa bình Việt
Cộng»! Xin xem tiếp thư luân lưu 1969 dưới đây.
Thư luân lưu 05.01.1969 -- Một năm sau, vừa lúc Hội Đàm
Paris giữa bốn bên mở ra cách đó mấy tháng đang khi
chiến tranh vẫn sôi sục và mạng sống con người như cỏ
rác, HĐGMVN gởi một «Thư luân lưu xây dựng hòa bình»
05.01.1969 đến toàn thể tín hữu, trình bày đường hướng
mục vụ «xây dựng hòa bình» căn cứ trên những huấn dụ của
Đức Thánh Cha Phaolô VI và của Công Đồng Vatican II.[68]
Thư luân lưu mở đầu bằng một nhận xét bi thảm: «Hơn hai
mươi năm chiến tranh, không những đã chồng chất lên quê
hương quá nhiều đau khổ, bao nhiêu tài sản và bao nhiêu
sinh mạng bị hoang phí, mà tình trạng di cư, tản cư còn
gây thêm nhiều xáo trộn xã hội và kinh tế. Nhưng thảm
trạng vật chất không sánh được với những thảm hại luân
lý và tinh thần. (….) nhiều kẻ mất tin tưởng ở tương
lai, đâm ra chơi bời trụy lạc, hoặc tham nhũng hoặc bán
rẻ thanh danh tiết hạnh. Nếp sống xa hoa, bất công bên
cạnh tiếng súng nổ rền ngày đêm, bên cạnh những đồng bào
chiến nạn, thật là đắc tội với Thiên Chúa và Tổ
quốc.»[69]
Tiếp theo, Thư luân lưu minh định quan niệm hòa bình của
kitô giáo: «Một lần nữa, chúng tôi xác nhận rằng: Hoà
bình không có nghĩa là không có chiến tranh. Hòa bình
không phải là thế quân bình giữa hai lực lượng đối lập.
Hòa bình chân chính không phải là hòa bình chiến lược.
Hòa bình phải là thăng tiến nhân quyền. Hòa bình là trật
tự trong công lý và khôn ngoan, là sự hòa hợp của cộng
đồng dân tộc để cùng nhau mưu cầu công ích, là kết quả
của tình thương quảng đại bao dung, xóa bỏ hận thù, là
nỗ lực không ngừng để cải thiện đời sống xã hội và đem
ích chung cho mọi tầng lớp của người dân (trích ĐTC
Phaolô VI). Hòa bình ấy chúng ta xây dựng không phải
bằng khủng bố đàn áp, mà bằng nghị lực tinh thần, vừa
tin tưởng vào sức mạnh thiêng liêng phù trợ, vừa tin
tưởng mãnh liệt vào tiền đồ tổ quốc…».[70] Không phải
chỉ có người cộng sản mới kêu gọi hòa hợp dân tộc, xóa
bỏ hận thù. Các giám mục Miền Nam VN còn đi xa hơn: phải
thăng tiến nhân quyền…
Trong những điều khuyên bảo, Thư luân lưu 1969 có nhắc
đến sự tôn trọng sinh mạng người dân, rằng: «Mạng sống
con người thuộc quyền tạo hóa không ai được cho mình
quyền sinh sát. (…) Thời chiến hay thời bình, người ở
vùng này hay vùng khác, giá trị sinh mạng cũng như nhau
và phải được kính trọng như nhau. Giết hại kẻ vô tội, kẻ
không khí giới là tàn ác dã man, phi nhân, phi luân.
Những cuộc tra tấn, những cực hình, những áp bức đe dọa,
những giam giữ trái phép, cưỡng bức làm nô lệ, bắt cóc
hay buôn bán phụ nữ trẻ con, là những hành vi tàn nhẫn
độc ác, phản ngược phẩm giá con người » (Hiến chế Vui
mừng và Hy vọng, số 27)[71] Lời khuyên bảo này nhắc ta
nhớ đến vụ tàn sát tập thể hơn 3 ngàn người thường dân ở
Huế trong Tết Mậu Thân 1968, cũng như những sự tàn sát
man rợ dân lành trong những trận pháo kích của Việt
Cộng, hay những trận dội bom bừa bãi trên làng mạc của
không quân Mỹ hoặc tình trạng giam giữ và tra tấn tồi tệ
ở Chuồng Cọp Côn Đảo và các nhà giam khác tại Miền Nam
VN… Rồi Thư luân lưu còn nhắc nhở đến việc tôn trọng sự
hòa hợp dân tộc: « Tất cả (mọi người dân) có phận sự cố
gắng xây dựng tổ quốc, kiến thiết nước nhà trong tinh
thần đoàn kết và hòa hợp. Đất nước này không phải là của
riêng thành phần nào; song là của chung dân tộc.»[72]
Thông cáo 30.07.1971 của HĐGMVN nhằm tường trình công
tác trong 6 tháng đầu năm, trong đó có tường trình phần
đóng góp ý kiến của GHCGVN cho Thượng Hội Đồng Giám Mục
thế Giới họp ngày 30.09.71 tại Tòa thánh. Góp ý về tình
trạng Việt Nam, Thông cáo viết: «Cả Bắc lẫn Nam, nhận
xét đầu tiên của chúng tôi là: Việt Nam đang bị giằng co
giữa hai thế lực tranh giành ảnh hưởng. Người Việt Nam
đang là nạn nhân của tình trạng quốc tế chúng tôi vừa
phát họa trên đây (= cạnh tranh ác liệt giữa các cường
quốc giàu có để tranh nhau ảnh hưởng nơi các nước nhược
tiểu). Tình hình xã hội Việt Nam là phản ảnh của tình
trạng quốc tế: một thiểu số giàu cứ giàu thêm mãi và đại
đa số nghèo cứ nghèo thêm mãi. Người ta đưa ra nhiều
nguyên nhân của tình trạng bất công này của xã hội: nào
là tại tham nhũng, nào là tại thế lực ngoại bang, nào là
đầu cơ bất chánh. Chúng tôi nghĩ nguyên nhân sâu xa
nhất, là họ thiếu một đức bác ái chân thành, họ không
nhìn nơi đồng bào họ một người anh em ruột thịt, cùng
một giang sơn, cùng một lịch sử, cùng một phong tục,
cùng một ngôn ngữ. (…) Họ có bao giờ nghĩ rằng đại đa số
nghèo biết đâu sẽ có ngày tức nước vỡ bờ, sẽ gây nên
những cuộc cách mạng, mà trong đó cả giàu lẫn nghèo
không ai được lợi cả.»[73] Nói cách khác, Thông cáo 1971
nhận xét và tố giác các đế quốc tranh giành ảnh hưởng và
quyền lợi với nhau trên xương máu của dân tộc Việt Nam,
và đặc biệt cảnh cáo người «quốc gia» rằng những hành
động tham nhũng, bất công của họ đối với quần chúng
nghèo khổ sẽ phải chịu trách nhiệm sản sinh ra những
người dân nổi loạn theo cộng sản và chống lại «quốc
gia»!
2.8-- Thư mục vụ 1973 và Tuyên Ngôn 1974 xác định lập
trường kiên định vì hòa bình của HĐGMVN kể từ năm 1966,
và khẩn thiết kêu gọi mọi người và các bên ký kết Hiệp
Định Paris hãy nỗ lực thực hiện nghiêm túc hòa bình, hoà
giải dân tộc, bằng đường lối dân chủ, tự do.
Thư mục vụ 03.02.1973 -- Sau một tuần lễ có Hiệp Định
Paris, HĐGMVN gởi một thư mục vụ ngày 03.02.1973, kêu
gọi các bên thực hiện nghiêm chỉnh Hòa bình chân chính
với những lời lẽ hết sức thành khẩn «căn cứ vào Phúc Âm
và lòng yêu nước đích thực», « trước những biến chuyển
lịch sử đang dồn dập tới sẽ có ảnh huởng quyết định vận
mệnh dân tộc chúng ta và Giáo hội Công giáo tại Việt Nam
».[74] Thực vậy, những biến chuyển có ảnh hưởng quyết
định trên vận mạng dân tộc đã dồn dập đến từ trước đó
mấy tháng, khi mà Tổng Thống Mỹ Richard Nixon đi Bắc
Kinh để thỏa thuận chấm dứt chiến lược đương đầu và bao
vây Trung Cộng của Mỹ với cuộc chiến tranh be bờ của Mỹ
ở mạn nam Trung Cộng là Việt Nam (và nói chung là ở cả
Vùng Đông Nam Á và Đông Á), và hứa sẽ không can thiệp
quân sự vào Việt Nam nữa để đổi lại sự cam kết của Trung
Cộng giữ cho Việt Nam được ổn định (?!). Trong bầu khí
tương nhượng với nhiều hậu ý mập mờ của Hiệp Định Paris,
Thư mục vụ này nhằm giải thích rõ một lần nữa đường lối
mục vụ vì Hòa bình của HĐGMVN, kêu gọi các bên ký kết
Hiệp Định Paris tôn trọng chữ ký của mình, và trấn an dư
luận hoang mang của tín hữu trước tình hình nguy ngập
của đất nước…
Bức thư xác nhận HĐGMVN đã cùng với Đức Phaolô VI vận
động kiên trì cho hòa bình kể từ năm 1966: «Là dân trong
nước, là môn đệ Chúa Giêsu Kitô, Đấng đã phán: ‘Phúc cho
những ai ham mộ hòa bình’ (Mt 5, 9), chúng tôi đã nhiều
lần hoặc kín đáo, hoặc công khai, vận động hòa bình cho
đất nước đã không may bị chiến tranh tàn phá từ sau đệ
nhị thế chiến cho tới bây giờ. Không cần phải trở về quá
khứ của những năm 1945-1954, chúng tôi chỉ xin đan cử
một vài cuộc vận động gần đây, khi mà cuộc chiến tại
Việt Nam tới mức độ khốc liệt nhất. (…) Như anh chị em
đã biết, cuộc vận động này đã là một cuộc hòa nhịp vào
những nỗ lực của Đức Thánh Cha trong bài diễn văn tại
Liên Hiệp Quốc (4.10.1965), trong thư Ngài gửi cho Tổng
thống L. Johnson (30.12.1965) và trong thư ngày
01.01.1966 gửi cho ba vị Chủ tịch ba nước Cộng sản:
Podgorny (Nga), Mao Trạch Đông (Trung Hoa lục địa) và Hồ
Chí Minh (Bắc Việt). Những nỗ lực chung vận động cho Hòa
bình của Đức Thánh Cha và của hàng Giám mục Việt Nam
được thực hiện dịp Đức Cha Sergio Pignedoli, đặc sứ Tòa
Thánh sang thăm Việt Nam. Trong thông cáo đề ngày
07.10.1966, chúng tôi đã lập lại lời kêu gọi của Đức
Giáo Hoàng tại Liên Hiệp Quốc: «Nhân danh Thiên Chúa,
xin hãy ngồi lại! Hãy gặp nhau, hãy đi đến bàn hội
nghị». Sau hết, trong thư luân lưu ngày 05.01.1969,
chúng tôi đã ‘thành khẩn kêu gọi các người thiện chí đem
hết khả năng để xây dựng lại quê hương, hàn gắn vết
thương dân tộc’. Chắc anh chị em còn nhớ bức ‘Giác thư
kính gửi các phái đoàn tham dự cuộc hội đàm Balê’ ngày
01.01.1970, do Đức Cha Saigon và Đức Cha Đà Nẵng ký tên
không ngoài mục đích ‘đóng góp hữu hiệu vào công cuộc
tìm kiếm Hòa bình cho xứ sở’».[75]
Thư mục vụ 1973 tha thiết kêu gọi tất cả các bên phải
thực thi «hòa bình đích thực» (không phải là hòa bình
kiểu Mỹ hay kiểu Việt Cộng), khi giãi bày như sau: «
Chúng tôi đã tích cực vận động cho Hòa bình. ‘Nhưng (…)
hòa bình này chỉ thực sự được thành hình, khi (…) nó
được xây dựng trên nền tảng vững chắc, nghĩa là khi nó
được chân lý làm nền tảng, công bình làm quy tắc, tình
yêu làm động lực, tự do làm bầu khí’ (Tuyên ngôn của
HĐGMVN ngày 05.01.1969). Nói khác đi, Hòa bình phải là
thăng tiến con người dưới mọi khía cạnh của đời sống cá
nhân và dân tộc: vật chất, kinh tế, chính trị, văn hóa,
tôn giáo, gia đình, xã hội. Chúng tôi, cũng như anh chị
em, chưa bằng lòng với thứ hòa bình mới chỉ có nghĩa là
không có chiến tranh. Chúng tôi mạnh bạo lên án thứ hòa
bình chiến lược để chuẩn bị chiến tranh, chúng tôi không
chấp nhận thứ hòa bình giả hiệu làm mất tự do con người,
thứ hòa bình phỉnh gạt, bị dục vọng lôi cuốn, bị đam mê
chi phối.» Không còn gì rõ hơn những lời cảnh cáo bộc
trực này…
Thư mục vụ tiếp: «Nền hòa bình như trên, hiện chúng ta
chưa được hưởng trên đất nước Việt Nam, sau hơn một phần
tư thế kỷ chém giết nhau và mặc dầu đã có ngưng bắn hôm
27.01.1973. Dĩ nhiên ngưng bắn (…) chỉ dẫn tới hòa bình
khi được nghiêm chỉnh thi hành, dựa trên những cam kết
song phương, nghĩa là những điều kiện đôi bên đã chấp
thuận phải được cả đôi bên trung thành tuân giữ.»[76]
Những điều khuyên bảo trên đây cho thấy HĐGMVN đã đoán
truớc rằng Hiệp Định Paris có khả năng bị đôi bên xé nát
thôi, và dân chúng vẫn tiếp tục lầm than dài dài! Ngoài
ra, các Ngài có tỏ ý lo ngại rồi ra một bên sẽ dùng vũ
lực để thống nhất đất nuớc, và lo chuẩn bị tinh thần cho
giáo dân dám nhìn thẳng vào thực tế ấy để sống rốt ráo
đòi hỏi của Tin Mừng.
Thực vậy, Thư mục vụ khuyến khích các bên tạm thời chấp
nhận thực tế lịch sử đất nước chia đôi, và chuẩn bị dần
để đi đến thống nhất bằng đường lối tự do và dân chủ,
khi trình bày như sau: «Phải thành thực công nhận rằng,
đất nước Việt Nam bị chia đôi (từ 1954) là hậu quả của
một cuộc tranh giành quyết liệt giữa hai khối. (…) Việt
Nam không được may mắn, (như Đức và Cao Ly, không dùng
vũ lực để thống nhất, do đó), cuộc huynh đệ tương tàn đã
làm tan nát đất nước ở hai miền, về nhân lực cũng như
tài lực. Thống nhất đã không được thực hiện. Hố phân
chia lại mỗi ngày mỗi sâu và rộng hơn. Hiệp định Balê
27.01.1973 vừa rồi mới đem lại một cuộc ngưng bắn, ít là
trên lý thuyết. Nhưng sông Bến Hải hãy còn chia đôi Nam
Bắc, mặc dầu chỉ là tạm. Ai cũng đau lòng trước tình
trạng đó và người công giáo chúng ta có lý do đau lòng
hơn, vì đất nước chia đôi, Giáo hội cũng chia đôi, làm
mất đi bao nghị lực của sự hợp nhất huynh đệ. Nhưng giữa
hai việc: việc dùng chiến tranh để thống nhất và việc
(…) Nam Bắc tạm nhận thực tế lịch sử (với hai nhà nước,
hai chế độ chính trị khác nhau), ai là người thực sự yêu
nước cũng chấp nhận việc thứ hai, để Nam Bắc có đủ thời
giờ chuẩn bị tâm hồn, cùng nhau thúc đẩy lịch sử bằng
cách vận động thống nhất trong Hòa bình, bằng tự do và
dân chủ.»[77] Quả vậy, đã rủi ro chém giết nhau mấy chục
năm rồi, thì nay dứt khoát không để xảy ra cảnh «huynh
đệ tương tàn » nữa!
Tiếp đến, Thư mục vụ khuyến khích tín hữu công giáo hãy
tiếp tục khước từ ý thức hệ duy vật vô thần, («duy vật
vô thần không phải chỉ có nơi những quốc gia ra mặt
chống đối Giáo hội, vu khống Giáo hội, chia rẽ Giáo
hội»), bằng cách triệt để theo gương Chúa Giêsu, nhìn
nhận Thiên Chúa là Cha, «Lạy Cha chúng tôi ở trên trời»
(Mt 6, 9), sống đạo đức và tin tưởng vào Chúa: « Chúng
con đừng sợ… »; hãy tham gia chính trị để phục vụ công
ích; hãy tiếp tay giải quyết các vấn đề xã hội đồng thời
với việc canh tân đời sống mình…[78]
Nói riêng với tín hữu công giáo đang bị dao động, hoang
mang cực độ truớc tình thế bấp bênh, bất định, Thư mục
vụ 1973 nhắc nhở anh chị em không được «nản lòng thất
vọng» vì có sức mạnh của Chúa ở với chúng ta (Pl 4,13).
«Ngoài ra, việc nhiều và khó nói trên, ta không làm một
mình. Toàn thể Giáo hội ở bên cạnh ta, nâng đỡ ta. Đức
Thánh Cha đáng mến đã, đang và sẽ hỗ trợ ta. Hãy bám
chặt vào Ngài như một tảng đá vững chãi Chúa xây Giáo
hội trên đó (Mt 16, 18) (Người viết nhấn mạnh). Anh chị
em hãy tín nhiệm vào Ngài, cũng như vào hàng Giáo phẩm
của anh chị em. (…) Kẻ thù Giáo hội muốn phá đạo, việc
đầu tiên họ làm là bôi lọ hàng Giáo phẩm, chia rẻ các
Ngài với giáo dân. Chính Chúa Kitô đã nói trước, để ta
đề phòng: «Đánh chủ chăn, thời đoàn chiên tan rã.» (Mt
26, 31)
«Cuối cùng, đoàn kết gây sức mạnh. Chúng ta, tất cả là
con Chúa. Ta phải thương yêu nhau, như Chúa thương yêu
ta (Gn 15, 12). Ta thương yêu tất cả, thương yêu cả kẻ
thù, mặc dầu không chấp nhận việc làm và chủ truơng phi
nhân và phản đạo của họ. Như vậy ta hành động như Cha
chúng ta trên trời làm cho mặt trời mọc lên soi kẻ ngay
và kẻ gian, cho kẻ tốt và kẻ xấu (Mt 5, 45).[79] Đây là
lần đầu tiên, các Chủ Chăn nói đến một điều răn của Chúa
đã trở thành «cấm kỵ» trong các văn kiện chính thức suốt
thời gian chiến tranh: Hãy thương yêu cả kẻ thù! Những
lời cuối cùng này có vẻ như lời trăn trối của người Cha
còn chút hơi tàn nào thì cũng ráng thốt ra trước khi
không còn nói được nên lời nữa. Những lời này cũng làm
chứng cho mối tình Cha tha thiết của Đức Phaolô VI đối
với dân tộc Việt Nam, Người mà chính các Giám mục Việt
Nam đã từng cộng tác trong việc vận động cho hòa bình
Việt Nam, và đã được gọi với danh hiệu là «Vị Giáo Hoàng
của Hòa bình».[80]
Tuyên Ngôn 10.01.1974 -- Tiếng nói cuối cùng của HĐGMVN
(ở Miền Nam) được bộc lộ thẳng thắn trong bản Tuyên Ngôn
ngày 10.01.1974, khẩn thiết yêu cầu các bên dứt khoát
chấm dứt chiến tranh và cùng nhau xây dựng hòa bình chân
chính, sau khi Mỹ rửa tay và cuốn gói ra đi đợt chót vào
tháng 3.1973, bỏ rơi một Miền Nam rối loạn bời bời.
Tuyên Ngôn xác nhận một cách rất khiêm tốn: «Ý thức
trách nhiệm của chúng tôi đối với Dân Chúa cũng như đối
với Quê hương, chúng tôi mong đóng góp phần nhỏ mọn vào
việc tái lập hòa bình cho xử sở và việc hòa giải dân
tộc.
«Đã nhiều lần (ghi chú: tất cả là 11 lần) chúng tôi bày
tỏ lập trường của chúng tôi là mong mỏi chấm dứt chiến
tranh tàn khốc này, xây dựng một nền hòa bình chân
chính, và hòa giải anh em cùng chung một nòi giống.
«Sau khi hiệp định Paris về ngưng bắn và tái lập hòa
bình tại Việt nam đã được ký kết, ai ai cũng mong mỏi
hiệp định này mang lại kết quả tốt đẹp. Trái lại, chiến
tranh vẫn còn tiếp diễn. Vậy một lần nữa, chúng tôi tha
thiết yêu cầu Chánh phủ hai miền Nam Bắc cùng một lượt
và song phương, trong tình thương Dân tộc, ngưng hẳn mọi
hoạt động chiến tranh, chấm dứt ngay việc tuyên truyền
thù nghịch, (…) chung sống hòa bình như hai nước anh em,
đợi ngày thống nhất bằng một cuộc tổng tuyển cử thật tự
do và dân chủ.
«Để cụ thể hóa ước vọng trên, chúng tôi yêu cầu hai bên
Nam Bắc trao trả hết tù binh, quân sự và dân sự, (…) mở
rộng quan hệ bình thường bằng cách cho phép trao đổi thư
từ, cho phép các gia đình ly tán được biết tin tức lẫn
nhau và được từ bên này sang bên kia đoàn tụ với nhau
nếu các đương sự muốn.
«Chúng tôi xin Chánh phủ miền Bắc ban hành mọi tự do dân
chủ, nhất là tự do tôn giáo thực sự cho bất cứ tôn giáo
nào trên đất Bắc. Chúng tôi cũng xin Chánh phủ miền Bắc
cứu xét và thả những người bị giam cầm vì hành động
chính trị hay tôn giáo. Riêng cho Giáo hội Công giáo tại
Bắc Việt, (….) chúng tôi xin cho các Đấng Giám mục, anh
em đáng kính của chúng tôi, được năng gặp gỡ nhau bàn về
giáo sự, được liên lạc với chúng tôi và nhất là được
liên lạc với Tòa Thánh Rôma.
«Chúng tôi xin Chánh phủ Việt Nam Cộng Hòa và các bên
đối lập thuộc mọi khuynh hướng tại miền Nam Việt Nam một
đàng mở rộng thêm tự do dân chủ trong sinh hoạt chính
trị, một đàng từ bỏ đối lập bạo động bằng võ khí. (…)
Xin ân xá và hủy án tất cả các chính trị phạm (…) để tạo
tình đoàn kết quốc gia. Sau hết, trong tinh thần hòa
giải dân tộc, chúng tôi xin Chánh phủ VNCH giao hoàn tài
sản lại cho những người bị tịch thu mà không có án tòa;
đồng thời thẳng tay diệt trừ những tệ đoan xã hội, nhất
là nạn tham nhũng hối lộ, và hết sức nâng đỡ giới lao
động nghèo khó. (…) Chúng tôi sợ rằng đất nước này có
thể mạt vong vì tham nhũng, nhất là tham nhũng lại do
những người có trách nhiệm.
«Sau hết, chúng tôi xin tất cả Dân Chúa: giáo sĩ, tu sĩ,
giáo dân, xóa bỏ những hiềm khích bất hòa, sẵn sàng chấp
nhận những dị biệt về chính kiến, sẵn sàng tha thứ, dầu
trong gia đình có người bị bên này hay bên kia sát hại
vì thời cuộc. Thi hành mấy điều tối thiểu trên đây, với
lòng thành thực thống hối về những lỗi lầm trong đời
sống quá khứ, anh chị em chắc chắn đạt được những kết
quả đích thực nhất của Năm Thánh: ‘Canh tân và hòa
giải’.»[81] Lời minh định này cũng có nghĩa là nếu thi
hành đúng sự hướng dẫn mục vụ nói trên, người tín hữu
chắc chắn được «Ân toàn xá» trong thời gian kể từ Chúa
nhật 1 mùa vọng 1973 cho tới hết ngày 24.12.1974 sau khi
làm thêm những thủ tục thường lệ. Chính Đức Thánh Cha
Phaolô VI đã nhấn mạnh hai mục tiêu chính (như là ân
sủng) của Năm Thánh 1975 là Canh tân và Hòa giải, và đã
khai mạc Năm Thánh sớm hơn để cho Dân Chúa được huy động
trong nỗ lực canh tân đời sống và hòa giải với Chúa và
tha nhân [82], theo tinh thần Vatican II.
2.9-- Chia sẻ cùng thân phận đọa đầy của dân tộc, tháng
4-1975 các Giám mục đều ở lại hay trở về các vùng «giải
phóng»; hai Đức Tổng Giám mục Huế và Saigon, cũng như
một số giáo dân, đã lên tiếng kêu gọi người công giáo
hãy ở lại với Quê hương Đất nước, chấp nhận cùng chung
sức xây dựng hòa bình trên Quê hương đổ nát…
Hết rồi những lời kêu gọi thống thiết của Giáo Hội cho
một nền hòa bình công chính cho Việt Nam (nhằm phục vụ
quyền lợi của người dân VN), mà cả hai chính phủ Nam Bắc
VN và các cường quốc liên hệ đều không ai màng tới. Thế
giới não nề, giãn ra xa, phủi tay, để mặc cho người Việt
Nam tự giải quyết lấy vấn đề Việt Nam với nhau. Thực ra,
ai cũng ngoan cố bám chặt quyền lợi của mình, xoay xở,
thương lượng, đi đêm với nhau, để kết thúc một cuộc
chiến có lợi nhất cho họ… Đã tới lúc người dân Việt Nam
thấp cổ bé miệng bị buộc phải nhìn thấy lần chót cảnh
quân lực Bắc Việt chấm dứt chiến tranh bằng máu lửa và
phải chấp nhận một thứ hòa bình rừng rú, què quặt, xơ
xác, tan tác…trên đất nước.
Thực tế, cuối năm 1974 sang đầu năm 1975, tình hình
chiến sự có mòi chuyển hướng mạnh với những cuộc tấn
công thử lửa của Việt Cộng ở chiến khu Đ và chiếm đóng
tỉnh Phước Long, đang khi tình hình chính trị của Saigon
vẫn rối như tơ vò. Hiệp định Paris đã bị xé nát từ lâu.
Không khí Miền Nam đã ngột ngạt mùi súng đạn. Rồi, vào
đầu tháng 3.1975, bỗng chốc có tin Ban Mê Thuột bị tấn
công dữ dội và thất thủ vào giữa tháng 3, kéo theo việc
triệt thoái hỗn loạn của quân lực VNCH từ cao nguyên
trung phần về vùng ven biển. Cuộc triệt thoái gây tổn
thất nặng nề về nhân mạng cho quân và dân, thê thảm đến
mức gây ra một tình trạng khủng hoảng tinh thần trầm
trọng trên cả nước. Mọi người sẵn sàng bỏ chạy, chạy
trối chết, chạy thục mạng về hướng Saigon, để cuối cùng
phải chấp nhận đầu hàng bạo lực…
Trong vòng mấy ngày đầu tháng 4, từ Quảng Trị trở xuống,
các binh đoàn của VNCH tự động tan rã trước sức tiến
công vũ bão của quân lực Bắc Việt. Tình cảnh hằng trăm
ngàn người dân bồng bế nhau chạy giặc, đạp đổ lên nhau
mà đi, đói khổ chết chóc trông thảm thương không bút nào
tả xiết. Ngược dòng di tản, Đức Tổng Giám mục Nguyễn Kim
Điền, lúc bấy giờ đang ở Saigon, liền tức tốc lội ngược
về Huế để chia sẻ nỗi niềm tan tác kẻ ở người đi của bà
con lương giáo. Trước tình cảnh hỗn loạn này, ĐC Điền đã
lên tiếng kêu gọi người công giáo hãy bình tĩnh, ở lại
với quê hương, cùng nhau ra sức xây dựng lại đất nước.
Trong một thư gởi Giám mục Mercier, Đức Tổng GM Điền
viết khi còn ở Saigon rằng bổn phận của Ngài là phải
tiếp tục sứ vụ tông đồ của mình tại giáo phận Huế để
Giáo Hội Chúa vẫn hiện diện và Phúc Âm vẫn được rao
giảng, nếu cần, bằng cách Ngài «bị tù tội, đau khổ hay
bách hại, hoặc bằng lời lẽ mà người ta trông đợi nơi
Ngài». Ngài tiếp: «Chỉ có một điều thật sự quan trọng là
loài người phải được cứu rỗi».[83] Những lời tâm huyết
này đã thành sự thực sau này !…
Khác với năm 1954 có 5 vị Giám mục và 700 linh mục hỗ
trợ cho cuộc di cư khổng lồ của trên 600 ngàn người công
giáo vào Miền Nam, lần này chính hàng Giáo phẩm và đa số
linh mục tu sĩ đã có thái độ hoàn toàn ngược lại, tự ý
chấp nhận ở lại vùng «giải phóng», không phải vì ngây
thơ, nhưng vì ý thức trách nhiệm của mình đối với Giáo
Hội và Đất nước. Quả thế, Đức Cha Seitz, Giám mục
Kontum, đang ở Đà Nẵng vào đầu tháng 4, đã tìm cách lội
ngược về địa phận Kontum của Ngài, nơi mà tất cả người
Thượng công giáo đều ở lại cũng như đa số người Kinh
công giáo. Cũng vậy, Đức Cha Nguyễn Sơn Lâm đã rời
Saigon vừa khi được tấn phong để ngược về giáo phận
Đalat của Ngài. Còn Đức Giám mục Đà Nẵng Phạm Ngọc Chi,
người đã tổ chức cho tín hữu thuộc giáo phận Bùi Chu của
mình di cư vào Nam sau Hiệp Định Genève 1954, thì nay đã
chấp nhận ở lại với con chiên và đồng bào mình. Đức Cha
Nguyễn Huy Mai, Giám mục Ban Mê Thuột, vẫn trung thành ở
lại với anh em tín hữu không di tản, nhất là với bà con
người Thượng là những kẻ nhất định không rời bỏ quê
hương mình, trong lúc tình hình chiến sự sôi động tại
tỉnh này và sau khi Ban Mê Thuột bị thất thủ. Còn Đức
Cha Nguyễn Văn Hòa đang tĩnh tâm tại Ban Mê Thuột để
chuẩn bị được phong chức thì vẫn ở lại thành phố đổ nát
này, và đã được phong chức sau khi chiến tranh chấm
dứt.[84]
Tại Saigon, Đức Tổng Giám mục Nguyễn Văn Bình trả lời
phỏng vấn của hãng thông tấn AFP của Pháp ngày 3 tháng
4.1975, xác nhận: «Hàng giáo phẩm không tổ chức di tản
giáo dân, và các giám mục đã nhất định ở lại giáo phận
mình (trong vùng đã ‘giải phóng’).» Điều này được thi
hành không phải theo lệnh của Tòa Thánh, mà «do sự đồng
thuận của tất cả các giám mục tại Miền Nam Việt Nam khi
họp Hội đồng Giám mục vào tháng giêng vừa rồi.» ICI
trích lời ĐC Bình: «Giáo Hội ở trên tất cả ý thức hệ
trần thế».[85]
Thông cáo 08.04.1975: Sau đó, Tòa Tổng giám mục Sàigòn
ra thông cáo ngày 8 tháng 4.1975 xác nhận tình hình an
ninh rất nguy kịch: «Những biến cố dồn dập xảy đến trong
mấy tuần qua đã tạo nên một cảnh điêu linh tang tóc cho
hàng triệu đồng bào khắp nơi và tình trạng cực kỳ hoang
mang cho toàn thể dân chúng», và khẩn thiết kêu gọi mọi
người tín hữu công giáo hãy «bình tĩnh», góp sức «vãn
hồi hòa bình và hòa giải» và nghiêm khắc ngăn chặn mọi
hành vi xuẩn động…
Thông cáo nêu lên 3 điểm (trích nguyên văn):
1. "Trong bất cứ hoàn cảnh nào, người công giáo cũng
phải cố gắng tự chủ, bình tĩnh nhờ Đức Tin của mình, để
có thể nhận định thời cuộc một cách sáng suốt. (…)
2. "(…) Không bao giờ Giáo hội chủ trương hay tán thành
việc võ trang các giáo xứ hoặc thành lập các đạo quân
công giáo. Giáo hội cũng không hề chủ trương di dân lánh
nạn ra ngoại quốc như nhiều tin đồn vô căn cứ đã được
tung ra. (Người viết nhấn mạnh)
3. "Người công giáo cũng như hết mọi người dân đều phải
cố gắng góp phần vào công cuộc vãn hồi hòa bình và hòa
giải giữa đồng bào Việt Nam. (…)" [86]
Về phía tín hữu, đặc biệt có một «Tuyên ngôn về vấn đề
di cư ra nước ngoài» đề ngày 19.04.1975 mang 102 chữ ký
(đợt 1) của nhiều thành phần dân Chúa (linh mục, tu sĩ
nam nữ, dân biểu, giáo sư, cán sự xã hội, sinh viên,
viên chức, lao động, y tá, nội trợ, thành viên Hội đồng
giáo xứ, phế binh, v.v. tỏ ý lo ngại về ý đồ (Ghi chú
của người viết: ý đồ của Mỹ, theo dư luận lúc bấy giờ,)
muốn «lập lại phong trào di cư năm 1954», nên «cảm thấy
có trách nhiệm nói lên những điểm sau đây :
1. «Trong bất cứ hoàn cảnh nào, quê hương duy nhất của
người Việt Nam vẫn là nước Việt Nam. Và trong bất cứ
hoàn cảnh nào, mọi người Việt Nam không phân biệt tôn
giáo, chính kiến hay địa phương, đều có bổn phận và có
khả năng góp phần vào việc giải quyết những vấn đề sinh
tử của đất nước, đặc biệt vấn đề hòa giải giữa người
Việt Nam.
2. «Việc di tản do Chánh phủ Mỹ chủ trương chắc chắn
nhằm mục tiêu chính trị chứ không phải thuần túy nhân
đạo. (…)
3. «Chúng tôi tích cực hưởng ứng thông cáo của Tòa Tổng
Giám Mục Saigon ngày 08 tháng 4 năm 1975 kêu gọi đồng
bào Công Giáo không di tản, không võ trang nhưng ngược
lại cố gắng góp phần vào công cuộc vãn hồi hòa bình và
hòa giải giữa đồng bào Việt Nam.»
«Chúng tôi xác tín rằng dầu cho bất cứ việc gì xảy ra,
chúng tôi sẽ ở lại quê hương để góp phần nhỏ mọn của
mình vào việc hòa giải dân tộc. Chúng tôi kêu gọi tất cả
đồng bào, dầu là thuộc tôn giáo, chánh kiến hay địa
phương nào, hãy cương quyết và can đảm ở lại để làm tròn
bổn phận của người công dân việt Nam.»[87]
Tạm kết luận : Về phía mình, GHCGVN đã tận lực sống hòa
mình với dân tộc trong từng hoàn cảnh và giai đoạn trớ
trêu của lịch sử, hướng dẫn người tín hữu công giáo sống
đạo nghiêm túc và tận tụy làm nghĩa vụ công dân qua
những giai đoạn trôi nổi của đất nước. Về phía đế quốc
Mỹ, họ đơn phương can thiệp vào chiến cuộc Việt Nam, rồi
đơn phương rút quân khỏi miền Nam trước và sau khi ký
kết Hiệp định Paris với Hà Nội. Về phía Hà Nội, đảng
CSVN đã thành công tung quân tấn chiếm toàn miền Nam
theo như đường lối bạo lực cách mạng của họ, dĩ nhiên là
ngoài thẩm quyền của HĐGMVN và bất chấp quyền tự quyết
của nhân dân miền Nam VN. Nói cách khác, những chính
quyền Saigon đã thất bại trong việc giữ vững Miền Nam VN
sau khi đã được triệt để nâng đỡ tinh thần và nhân lực
từ phía công giáo. Các chính quyền và chính khách của
chế độ Saigon đã «ăn quịt» nhân dân và cộng đồng công
giáo MNVN, « ị » ra đó rồi rửa tay ra đi, để rồi mọi
người dân phải «lãnh đủ» với kẻ chiến thắng, thì không
còn ai vô lương đến nỗi đòi buộc GHCGVN phải tiếp tục
nâng đỡ chế độ Saigon sau khi chế độ này đã sụp đổ. Hơn
nữa, Giáo Hội cũng không thể bị buộc phải nai lưng ra
làm tôi cho những ý đồ phiêu lưu chống cộng của những
chính khách này khác sau đó. Xin để cho GHCGVN sống
trung thực với bản chất và sứ mạng đặc trưng của mình
mỗi ngày một tốt hơn…
3-- VÌ LÝ TƯỞNG PHỤC VỤ CON NGƯỜI, CẦN XẢ THÂN XÂY
DỰNG HÒA BÌNH, HÒA GIẢI, HÒA HỢP DÂN TỘC
Như mọi người đều biết, tình hình trước và sau ngày
30.04.1975 rất nghiêm trọng. Trong những ngày trước
30.04, chỉ cần một chút sơ hở nào đó thì cũng đủ để tạo
ra một tình trạng hỗn mang và biển máu oan uổng. Hai Tòa
Tổng giám mục Huế và Sàigòn đã có công đóng góp vô cùng
to lớn vào sự ổn định tình hình, tránh được đổ máu vô
ích, bằng cách lấy hết uy tín của mình để trấn an bà con
công giáo. Ai cũng thấy rõ Mỹ đã có kế hoạch bỏ rơi
VNCH, không còn tha thiết gì đến Hiệp định Paris, và âm
thầm thực hiện kế sách tháo chạy an toàn với người của
họ vào ngày chót, để khỏi gây náo loạn. Tổng thống «hai
ngày» Dương Văn Minh được chỉ định với mục tiêu chuẩn bị
bàn giao quyền hành cho phe chiến thắng, nên ra lệnh cho
binh sĩ buông súng vào sáng ngày 30.04 để tránh cho
thành phố Sàigòn bị chìm trong khói lửa và chết chóc phí
phạm. Đường phố Sài gòn phủ đầy với quân trang quân dụng
của lính vứt ra bừa bãi và bỏ chạy. Dân chúng hốt hoảng
chạy đi mua cờ Mặt trận Giải phóng treo trước nhà… Đoàn
quân Bắc Việt không cần tốn một viên đạn nào để tiến
thẳng vào Sàigòn, dưới con mắt hoang mang của số đông
dân chúng và lòng nhẫn nại của đồng bào công giáo mà đa
số là người di cư từ Miền Bắc vào Nam năm 1954. Chiến xa
Bắc Việt ủi sập cổng Dinh Độc Lập lúc 11g30 ngày
30.04.75 và buộc TT Dương Văn Minh đầu hàng vô điều
kiện. Một sĩ quan Bắc Việt dõng dạc phán: «Tình thế đã
thay đổi. Anh không còn gì để bàn giao. Anh chỉ có thể
tuyên bố đầu hàng.»
Bạo lực cách mạng đã thắng! Hiệp định Paris mà Thông cáo
chưa ráo mực của Tòa Tổng giám mục Sàigòn ngày 8.4.1975
còn ước mong được thi hành «một cách thành tín và công
bình bởi mọi thành phần liên hệ» thì đã bị vất vào sọt
rác từ lâu và không còn vớt vát gì được nữa khi «tình
thế đã thay đổi» do bạo lực cách mạng áp đặt. Vì thế,
điều ước mong của Tòa Tổng giám mục cho «quyền sống của
hết mọi thành phần được thực sự bảo đảm» sau khi chiến
tranh chấm dứt sẽ không có gì bảo đảm được tôn trọng.
Tuyệt vọng chăng?… Dù sao, cũng còn một niềm vui nghẹn
ngào là chiến tranh đã thực sự chấm dứt, đất nước không
còn bóng quân nước ngoài, và lòng dân vẫn sẵn sàng với
quyết tâm giữ gìn hòa bình đang còn gượng gạo này cũng
như tận lực xây dựng lại Quê hương đổ nát dù bị đặt dưới
bất luận chế độ nào. Phải, dù sao, vẫn còn đó những CON
NGƯỜI, những CON DÂN và ĐẤT NƯỚC VIỆT NAM để Hội thánh
phục vụ. Hội thánh Chúa luôn được mời gọi đồng hành và
chia sẻ thân phận chung của dân tộc Việt Nam. Trước lời
mời gọi thường xuyên này, đặt riêng vào hoàn cảnh cụ thể
sau 30.04.1975, Hội thánh miễn cưỡng hay thật lòng chấp
nhận chung sống hòa bình với người cộng sản trong lòng
dân tộc?
Nói riêng về Hội thánh Chúa, trước con mắt của trần thế,
xét về uy tín của Giáo hội căn cứ vào tinh thần và kỷ
luật sống đạo của hàng giáo phẩm và cộng đồng tín hữu,
người ta phải nhìn nhận rằng lúc bấy giờ Hội thánh ở
MNVN đã thua thiệt và yếu thế trên cả hai mặt đạo đời,
Về mặt đời, sau 20 năm xả thân chống cộng hết mình, phớt
lờ đường lối «hòa bình công chính» của Giáo hội đưa ra,
người công dân công giáo phe «quốc gia» (cùng với chế độ
Saigon) đã thất trận và đầu hàng thê thảm. Về mặt đạo,
HGPCGVN đã bị các bên lâm chiến coi thường đối với những
lời kêu gọi hòa bình đầy đạo đức kitô giáo, và những đòi
hỏi thực thi công bình bác ái trong xã hội cũng bị coi
nhẹ… Như vậy, rõ ràng là uy quyền tinh thần (autorité
morale) cũng như uy quyền chính trị (autorité politique)
sa sút của một giáo hội chỉ có 5-6% dân số không cho
phép HGPCGVN vênh vang gì với «Chính quyền Cách mạng»
được cả. Nhưng, phải chăng vì vậy mà Giáo hội bị bắt
buộc phải «đầu lụy» chế độ cộng sản, như nhiều người
tưởng?! Dựa vào thực tại 30 năm sống đạo dưới chế độ
cộng sản, xét cho cùng, người ta có thể xác nhận chắc
chắn rằng đây là lần đầu tiên trong lịch sử GHCGVN, Dân
Chúa đã thực sự và hết lòng dấn thân sống chết với dân
tộc Việt Nam cho dù phải hy sinh ngay chính bản thân
mình.
3.1-- Trung thành với đường lối hòa bình của GHCGVN và
của Tòa Thánh Vatican, hai Tòa Tổng giám mục Huế và
Sàigòn đã can trường đứng lên kêu gọi tín hữu góp sức
xây dựng tinh thần hòa giải và hòa hợp đang sụp đổ ngay
trong lòng người dân Miền Nam Việt Nam trước sức tiến
công của quân lực Bắc Việt để gọi là «giải phóng» đất
nước; xây dựng cả tinh thần hòa hợp giữa bà con công
giáo với nhau đang khi phải cùng đồng hành với Dân tộc
dưới chế độ cộng sản.
3.1.1-- Đức cha Nguyễn Kim Điền,Tổng giám mục tổng giáo
phận Huế.
Tâm thư 01.04.1975 [88]: Thành phố Huế thất thủ ngày
26.03.1975, thì ngày 01.04.1975 Đức Tổng Giám mục Huế
Nguyễn Kim Điền đã gửi một tâm thư đến các Linh mục, Tu
sĩ và toàn thể anh chị em tín hữu nói lên với lòng chân
thành cảm mến, ngay từ đoạn mở đầu, lời hân hoan cảm tạ
Chúa về hồng ân Chúa ban là cuộc chiến tương tàn nay đã
chấm dứt sau 30 năm mong ước và cầu nguyện:: «Chiến
tranh đã chấm dứt trên giáo phận Huế. Đó là điều chúng
ta mong uớc và cầu nguyện từ ba mươi năm nay. Thời gian
sống trong hãi hùng, lo âu qua rồi. Thời gian đồng bào
chúng ta nghi kỵ, chia rẽ, thù hận nhau, có khi đến chém
giết nhau đã qua rồi. Chúng ta hãy cùng nhau cảm tạ
Thiên Chúa về hồng ân quí giá này.» Ngài không quên «ghi
ân tất cả những ai đã hy sinh để có được những ngày an
bình hiện nay» và cầu xin Thiên Chúa cho quê hương được
hưởng mãi cảnh thanh bình.
Bức tâm thư thiết tha kêu gọi người công giáo, vi tình
nghĩa với đồng bào ruột thịt, hoan hỉ làm bổn phận công
dân tốt dưới sự lãnh đạo của Chính phủ Cách Mạng: «Giờ
đây đã đến lúc chúng ta hoan hỉ sẵn sàng và hăng say
cộng tác với mọi người thiện chí, dưới sự chỉ đạo của
Chánh phủ Cách mạng để xây dựng lại Quê hương sau bao đổ
vỡ tang tóc, hầu đem lại tự do, ấm no, hạnh phúc cho
đồng bào ruột thịt.»
Và bức tâm thư khuyên bảo hãy triệt để thực thi luật Bác
Ái của Chúa Kitô, chia cơm sẻ áo cho nhau: «Hơn bao giờ
hết, đây là lúc chúng ta cần đoàn kết, yêu thương và
phục vụ người khác, giúp đỡ và chia sẻ cơm áo với đồng
bào, không phải chia sớt những gì mình dư thừa, mà còn
trao nhượng những gì mình chỉ có vừa đủ, theo tinh thần
bác ái của Chúa Kitô… (…) ‘Này là lệnh truyền của Ta:
Các con hãy thương yêu nhau như Ta đã thương yêu các
con’ (Gioan 15, 12). Vì yêu chúng ta, Chúa đã chết cho
chúng ta, thì còn có gì mà chúng ta không làm được để tỏ
lòng yêu mến nhau?»
Thế nào là yêu thương «người anh em» (nhất là người anh
em cộng sản đang nắm quyền) như Chúa muốn? Tâm thư giải
tiếp: «Giờ đây, chúng ta hãy khoan dung, tha thứ mọi lỗi
lầm, đừng nghi ngờ, thù hận ai và gây sợ hãi cho ai.
Nhưng trái lại, phải hiểu tốt, thông cảm và nhìn nhận
thiện chí của người khác, để tất cả mọi người sống thoải
mái, vui tươi, hạnh phúc của những công dân trong chế độ
tự do, dân chủ, thịnh vượng và hòa bình. Lý do là vì mọi
người đều là anh em có cùng một Cha chung trên trời» (Mt
23, 9). Tâm thư kết thúc với lời nhắc nhở «phải cùng
nhau xây dựng thế giới huynh đệ đại đồng cho hôm nay (…)
để nhờ đó chúng ta đạt tới đời sống huynh đệ trường cửu»
mai sau. Mục đích không hẳn là xây dựng thế giới đại
đồng XHCN, mà thông qua nó mà xây dựng Nước Chúa.
Lời phát biểu 09.04.1875 [89] : Tám ngày sau đó, tức
ngày 09.04.1975, trong lễ ra mắt của Uỷ ban Mặt trận Dân
tộc Giải phóng thành phố Huế, Đức Tổng giám mục Nguyễn
Kim Điền ngỏ lời chào mừng chiến tranh chấm dứt và độc
lập đất nước đang thành sự thực. Lời phát biểu gọn gàng,
đầy đủ, tin tưởng ở lời bảo đảm long trọng của Mật Trận
là sẽ tôn trọng tự do, trong đó có tự do tín ngưỡng.
Đồng bào công giáo nguyện tích cực góp phần xây dựng quê
hương trong tình tương thân tương ái, một xã hội dân
chủ, tự do, hòa bình, trong đó họ được chu toàn bổn phận
đối với Tổ quốc và đối với Thiên Chúa. Đúng vậy, vì họ
có bổn phận đối với cả nước nhà và Nước Trời, nên họ cần
có bảo đảm tự do làm con dân và làm con Chúa, cả hai tư
cách này đối với họ phải là một vậy! Đức Cha Điền là
người hiểu rất rõ và đã thực hành rất xuất sắc, theo
cách thế riêng của Ngài, đường hướng «hòa nhập văn hóa»
của Công Đồng Vatican II đặc biệt là từ lúc bấy giờ mãi
cho đến khi Ngài qua đời…
Đức Cha Điền nhấn mạnh đến lý do của niềm vui trọn vẹn
của người công giáo yêu nước: «Ở đời này, không có gì
quí hơn mạng sống con người, không có gì quý hơn độc lập
tự do. (…) Mạng sống của con người, độc lập của đất
nước, tự do của nhân quyền được bảo đảm, như vậy niềm
vui mừng của chúng tôi, của những người công dân công
giáo yêu nước, được trọn hảo.» Chớ gì niềm vui mừng của
người công dân công giáo yêu nước được mọi người yêu
nước hưởng ứng, tán thành, góp sức duy trì và phát triển
thêm lên để hòa nhập vào niềm vui chung của dân tộc Việt
Nam!
3.1.2-- Đức cha Nguyễn Văn Bình, Tổng giám mục giáo phận
Sàigòn.
Sàigòn, cựu thủ đô của chế độ Miền Nam Việt Nam, là nơi
tồn đọng một thực tại vô cùng phức tạp với những nỗi
niềm sôi sục lửa hận thù, hiềm khích, chia rẽ, đả kích,
chống đối, nghi kỵ, hốt hoảng, sợ sệt và sẵn sàng ăn
thua đủ với nhau. Hội thánh Chúa hẳn phải có một vai trò
và sứ mạng đặc biệt để xây dựng hòa bình và hòa hợp
trong tình huống này. Ngay trong nội bộ công giáo, phe
«cấp tiến» đang xông xáo vượt lên phất cờ chiến thắng,
áp đặt một đường lối cách mạng bên trong Giáo hội Công
giáo có lẽ còn «tả» hơn cả Nhà nước Quân Quản lúc bấy
giờ, gây hoang mang chia rẽ sâu đậm trong giới công
giáo. Phải, mới ngày nào đây thôi, nhóm người «công giáo
cấp tiến» còn chủ trương, theo Công Đồng Vatican II, một
Giáo hội của Đức Kitô thời sơ khai không vấn vương quyền
lực trần thế, một Giáo hội khiêm tốn và cởi mở ra với
trần thế, nhất là đối với thế giới người nghèo, một Giáo
hội của quần chúng nhân dân lao động, một Giáo hội không
hề biết cấu kết với các thế lực, quyền lực, nhất là
quyền lực nhà nước và chính trị để được yên thân, phát
triển dễ dàng… Nhóm người cấp tiến ấy lúc bấy giờ đang
cấu kết với Chính quyền Cách mạng để mong xây dựng cho
được một «Nước Chúa cách mạng» ngay trên đầu những vị
Chủ Chăn của mình. Vị Chủ Chăn đứng mũi chịu sào trong
tình thế này là Đức Tổng Giám mục Nguyễn Văn Bình của
giáo phận Saigon, một người rất nhũn nhặn và cởi mở,
nhưng biết rõ mình muốn gì và phải làm gì cho Đất nước
và Hội thánh Chúa.
Tâm thư của Đức Tổng Giám mục Sàigòn ngày 05. 05. 1975
[90]
Thành phố Sàigòn, thủ đô của Việt Nam Cộng Hòa, thất thủ
vào ngày 30 tháng 4.1975. Ngày 05.05.1975, Tổng Giám mục
Nguyễn Văn Bình gửi một tâm thư đến toàn thể tín hữu
trong giáo phận Sàigòn chân thành kêu gọi «người công
giáo phải hòa mình vào nhịp sống của toàn dân»:
1. Hãy cảm tạ hồng ân Thiên Chúa đã ban cho đất nước
được hòa bình, độc lập.
«Một trang sử mới đã mở ra cho dân tộc Việt Nam. (..)
Chiến tranh đã chấm dứt, (…) từ nay không còn bom đạn,
tang tóc, hận thù, phân ly… Tất cả những tai họa đó đã
thuộc về dĩ vãng. Đây là niềm vui chung của cả một dân
tộc, và với cái nhìn theo đức tin của người tín hữu, đây
cũng là một hồng ân của Thiên Chúa. (…) Chúng ta hãy cảm
tạ Thiên Chúa vì muôn ngàn ân phúc ngài đã ban cho toàn
thể dân tộc chúng ta.»
2. Căn dặn: không hoảng hốt, khép kín; sáng suốt và tích
cực trước trào lưu lịch sử.
«Hơn mọi lúc, giờ đây người công giáo phải hòa mình vào
nhịp sống của toàn dân. (…) Thay vì để tin đồn (…) làm
cho chúng ta hoảng hốt (…) hay khép kín, chúng ta phải
hướng mình theo trào lưu của lịch sử, phải có thái độ
bình tĩnh, sáng suốt và tích cực trước thời thế.»
3. «Nỗ lực tối đa góp phần vào công cuộc hòa giải và hòa
hợp dân tộc, phát động tình thương, sự hiểu biết, lòng
tha thứ và quảng đại, (…) để mọi anh em đồng bào hiểu
nhau hơn, mến nhau hơn. Đó chính là tinh thần Phúc Âm mà
thánh Phanxicô Assisi đã nhắc lại trong Kinh Hòa Bình:
‘Để con đem yêu thương vào nơi oán thù, đem trông cậy
vào nơi thất vọng, đem niềm vui đến chốn u sầu…’»
4. Tích cực thi hành mọi nghĩa vụ công dân do Chính phủ
cách mạng chỉ dẫn.
«Phải sẵn sàng thi hành một cách tích cực mọi nghĩa vụ
công dân do Chính phủ cách mạng lâm thời chỉ dẫn, (như)
tham gia các công tác nhằm ổn định tình thế, bảo vệ an
ninh, (…) tất cả những gì liên quan đến công ích (…)
tích cự tham gia như những công dân gương mẫu.»
5. Hướng về tương lai, xây dựng một VN thịnh vượng, tiến
bộ, công bình, giàu tình thương.
«Quan trọng là biết hướng về tương lai (…) xây dựng một
nước Việt Nam thịnh vuợng, một xã hội mới tiến bộ, công
bình, giàu tình thương. (…) Đó là điều đáng làm cho
chúng ta phấn khởi trong nỗ lực xây dựng lại quê hương
chúng ta.»
6. Riêng với người tín hữu, tin vào sức sống của Chúa
Kitô Phục sinh và Thánh Linh.
«Chúng ta còn có một niềm phấn khởi (…) bất diệt từ nơi
Thiên Chúa mà đến. Mỗi lần chúng ta cử hành thánh lễ,
Chúa Kitô Phục sinh đang sống và tác động giữa chúng ta.
(…) Ngài sẽ sai Thánh Linh đến (…) nâng đỡ chúng ta
trong nỗ lực xây dựng xã hội trần thế. (…) Hoàn cảnh mới
sẽ giúp chúng ta vượt qua những hình thức phụ thuộc để
sống những điều chính yếu nhất: (…) cởi bỏ người cũ, mặc
lấy con người mới để sống mầu nhiệm Phục Sinh một cách
cụ thể… »
Thư luân lưu của Đức Tổng Giám mục Sàigòn ngày 12.
06.1975 [91]
Năm tuần lễ sau bức tâm thư ngày 05.05.1975, tức sau khi
có xảy ra những lộng hành của nhóm «công giáo cấp tiến»
muốn ép buộc Đức TGM Nguyễn Văn Bình phải đứng về phía
Cách Mạng, Tòa Tổng giám mục Sàigòn ra một Thư luân lưu
ngày 12.06.1975 với những lời huấn dụ rất nghiêm nghị và
sáng suốt. Mở đầu, Đấng bản quyền trang trọng xác nhận
cần lên tiếng về một số điều vì sứ mệnh giáo huấn của
Giáo hội: «Trong sứ mệnh mục vụ được Giáo hội giao phó,
(…) chúng tôi[92] thấy cần lưu tâm thêm[93] quí cha, quí
tu sĩ và anh chị em giáo hữu về bổn phận của người công
giáo đối với chính quyền cũng như đối với Quốc gia Dân
tộc, và đối với Giáo hội tại địa phương cũng như trên
thế giới.»
1. «Đối với chính quyền. ‘Cộng đồng chính trị và công
quyền xây nền tảng trên bản tính con người, nên cũng nằm
trong trật tự do Thiên Chúa an bài’ (Hiến chế Vui mừng
và Hy vọng, số 74). Vì thế, Giáo hội dạy ta phải công
nhận và phục tùng Chính quyền, góp phần hợp tác với
Chính quyền trong việc mưu cầu hạnh phúc cho toàn dân ».
Lý do tại sao phải công nhận và phục tùng Chính quyền: «
‘Mọi quyền bính hiện hữu đều do Thiên Chúa thiết lập. Ai
chống lại quyền bính là chống lại trật tự do Chúa đặt
ra’ (Rom 13, 1-2), khi những chính quyền đó mưu cầu lợi
ích cho nhân dân, phản ánh nhu cầu và nguyện vọng chính
đáng của nhân dân. (….) ‘Tuy nhiên, khi công quyền vượt
quá giới hạn của mình mà đàn áp nhân dân thì chính nhân
dân cũng không nên từ chối thi hành những gì khách quan
xét thấy phù hợp với đòi hỏi của công ích. Nhưng nhân
dân được phép bênh vực quyền lợi của mình cũng như của
đồng bào, chống lại những lạm dụng của công quyền… ’
(Hiến chế Vui mừng và Hy vọng, số 74) ».
«Riêng đối với chính quyền cách mạng đang thực sự điều
hành việc quản trị miền Nam Việt Nam, chúng ta cùng chia
sẻ tâm tình của dân tộc, hoan nghênh chủ trương hòa giải
hòa hợp dân tộc và tự do tôn giáo được đề ra trong Sắc
lệnh về Tôn giáo của Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa đề ngày 14.05.1955, (…) và trong bản Tuyên bố của
Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam
về chính sách đối với vùng mới giải phóng đề ngày
1.4.1975.» Vâng, «hoan nghênh chủ trương…» cũng chính là
nhắc nhở cần phải thi hành đúng theo chủ trương vậy!
Lý do tại sao phải tham gia hợp tác với Quốc gia Dân
tộc: «Người công giáo như mọi công dân khác đều có bổn
phận tham gia vào việc xây dựng quốc gia và hợp tác với
chính quyền trong mọi công cuộc ích quốc lợi dân. (….)
Như Công đồng Vaticăng II xác nhận: ‘Mọi công dân phải
rèn luyện cho mình một tinh thần yêu nước với lòng quảng
đại và liêm chính… Tất cả mọi Kitô hữu phải ý thức về sứ
mệnh đặc biệt của mình trong cộng đồng chính trị, họ
phải nêu gương sáng bằng cách phát triển ý thức trách
nhiệm nơi chính mình và tận tâm phục vụ công ích…’ (Hiến
chế Vui mừng và Hy vọng, số 75) ». Nên nhớ, cụm từ «quốc
gia» ở đây, cũng như «cộng đồng chính trị» là chỉ tập
thể người dân trong một đất nuớc, hay toàn thể dân tộc,
và cần được phân biệt với «chính quyền» là cơ quan quản
lý đất nước, cai trị dân. Kytô hữu có trách nhiệm «phục
vụ công ích» và chống lại những gì phản lại công ích,
như đã nói ở phần trên.
2. «Đối với Giáo hội tại địa phương. Tình thế mới, chắc
hẳn phải có những phương thức mới để sống và hành động.
(…) 1-- Duy trì sự đồng tâm nhất trí. Chúng ta hô hào,
cổ võ tinh thần đoàn kết quốc gia, canh tân, hòa giải.
Thật không gì mỉa mai bằng trong nội bộ chúng ta lại
thấy phơi bày ra trước mắt mọi người những cảnh chia rẽ,
lên án nhau là phản động. Đã đến lúc chúng ta phải hàn
gắn lại những nứt rạn đó, vì chính Chúa đã tiêu diệt hận
thù và dạy chúng ta đoàn kết: (…) ‘Người đã hiến thân để
phá đổ bức tường ngăn cách là hận thù…’ (Eph. 2, 14).
2-- Đào sâu Đức tin. Để được sáng suốt thi hành nhiệm vụ
công dân công giáo, anh chị em phải có một Đức tin thật
vững mạnh, tin vào Chúa là Đấng trường tồn bất biến, và
Lời của Người là Lời soi đường chỉ lối.» Vì thế, cần
phải học hỏi giáo lý, đặc biệt trong các gia đình; sống
đạo thuần khiết và tránh phô trương hào nhoáng; năng
chịu các phép bí tích, «hãy lấy Đức tin làm đèn soi
sáng, Lời Chúa làm kim chỉ nam, và Đức Ái làm động lực».
3. «Đối với Giáo hội trên thế giới. Giáo hội Việt Nam là
một phần trong nhiệm thể duy nhất của Giáo hội hoàn cầu,
mặc dầu vẫn được tự do để thích nghi với truyền thống và
văn hóa dân tộc. Quyền tự do đó trong phạm vi điều hành
tại địa phương không được làm ta tách rời Giáo hội phổ
quát duy nhất, mà ngược lại, ta vẫn phải hiệp nhất và
cảm thông cùng Giáo hội khắp nơi trên thế giới. Thiết
thực là mấy điểm chính yếu sau đây:
1-- Trung thành với truyền thống chân chính. (…) Đoàn
kết trong một Giáo hội duy nhất, duy nhất vì chung một
Chúa, một Đức tin, một Phép rửa và đoàn kết vì được ràng
buộc bởi mối dây Đức Ái. Đó là lệnh truyền của Chúa…(…)
Vậy bằng bất cứ giá nào, ta phải bảo vệ lấy truyền thống
tốt đẹp và quí giá này.» NB: Không thể có một giáo hội
tự trị, tách biệt với thẩm quyền của Đấng kế vị thánh
Phêrô.
2-- Phục quyền Đức Giáo Hoàng. Đức Giáo Hoàng là đại
diện Chúa Kitô ở trần gian này. Với tư cách là đại diện
đó, ngài không còn là người của một quốc gia, của một
thế lực chính trị, kinh tế nào nữa. Vai trò của ngài
đứng ngoài các quốc gia và thuần túy tôn giáo. (…) Khi
những người công giáo khắp nơi trên thế giới vâng phục
quyền Đức Giáo Hoàng thì không phải vâng phục một người
của riêng một quốc gia nào, mà là vâng phục một uy quyền
tôn giáo phổ quát do chính Chúa Kitô thiết lập và chỉ
chịu trách về tôn giáo mà thôi. Vì thế, ta (…) không lo
sợ rằng vâng phục Đức Giáo Hoàng là nô lệ, vọng ngoại.»
NB : Ở đây, Thư luân lưu dùng cụm từ « Giáo hội hoàn cầu
» hay «Giáo hội phổ quát» để chỉ Giáo hội do Đức Kitô
lập ra mà người đại diện là Đức Giáo Hoàng, và tránh
không dùng cụm từ «Tòa thánh» có nghĩa vừa là Giáo quyền
Trung ương, vừa là Nhà nước Vatican (có thể sinh ra dị
nghĩa).
Cuối thư, Tòa Tổng giám mục kêu gọi «hãy coi thời kỳ
chúng ta đang sống bây giờ như một cơ hội tốt để thanh
luyện Đức tin và sống đến tột cùng những đòi hỏi của Đức
tin đó (người viết xin gạch dưới). (…) Thiên Chúa đã hứa
sẽ làm nên trời mới đất mới, cho công lý ngự trị, đó là
điều chúng ta đang mong chờ.» Niềm Tin Cậy được tuyên
xưng, nhưng có chút gì cay đắng trong một ngôn ngữ rất
trang nghiêm ấy… của Đức Cha Bình.
3.2--- Tổng Giáo phận Sàigòn dẫn đầu công cuộc tiến lên
theo trào lưu lịch sử đất nước: Mừng Quốc Khánh 2.9.75,
hoan hô việc Thống nhất Đất nước 22.11.75, chấp nhận chủ
nghĩa xã hội, khuyến khích các nỗ lực lao động sản xuất,
mạnh mẽ lên án âm mưu chống lại Chính quyền, chủ trương
«hòa nhập văn hóa».
3.2.1-- Đón mừng Lễ Quốc Khánh 02.09.1975
Nhân ngày Lễ Quốc Khánh mừng lần đầu tiên tại miền Nam
Việt Nam, Đức Tổng Giám mục Nguyễn Văn Bình ra một Thư
chung ngày 02.09.1975 phấn khởi chào mừng Ngày Quốc
Khánh trong “một miền Nam hoàn toàn giải phóng” và loan
báo một quan điểm thần học gần gũi với cái nhìn “hòa
nhập văn hóa” của riêng Ngài.[94]
“Ba mươi năm trước, ngày 2.9.1945, tại vườn hoa Ba Đình
Hà Nội, Hồ chủ tịch đã long trọng đọc Tuyên ngôn Độc
lập. Từ ngày đó dân tộc ta đã vượt qua những chặng đường
phi thường. (…) Ngày Quốc Khánh 1975, miền Nam đã hoàn
toàn giải phóng. (…)
“Trong lòng tin của tín hữu, cõi trần gian và cõi trời
không còn cách biệt, không còn phân ly, nhưng đã hòa
đồng và cứ vươn lên mãi dưới sức tác sinh của Thánh Thần
Thiên Chúa. (…) Sống niềm tin ấy trong những ngày lịch
sử này của dân tộc, chúng ta không có lý do gì để không
vui mừng đón nhận những giá trị của Cách Mạng.
“Trong xã hội cũ mà chúng ta đã có kinh nghiệm, tiền
bạc, lòng tham vô liêm sỉ, não trạng hưởng thụ, đã là
những tà thần của thời đại. Xã hội cũ đã được thay thế
và những tà thần ấy đã bị hạ bệ. Một xã hội mới đang
thành hình. Dân tộc chúng ta đang phục hồi quyền làm chủ
của nhân dân, phục hồi ý nghĩa và giá trị lao động để
cùng nhau tiến tới một xã hội công bình nhân ái.”
Đỗ Mạnh Tri viết: “Ngày nay đọc lại người ta không khỏi
mỉm cười.” Đúng, nhưng ngay vào lúc bấy giờ cũng có rất
nhiều người công giáo (nhất là công giáo Miền Bắc di cư,
ngoại trừ những linh mục, tu sĩ, giáo dân di cư thuộc
nhóm “công giáo cấp tiến”) chẳng những mỉm cười mà thôi,
mà còn cho là ngây ngô, ngớ ngẩn nữa… Và còn ngây ngô,
ngớ ngẩn hơn, chính là lời tuyên bố xanh dờn (cùng một
quan điểm thần học với ĐC Bình) của Lm Huỳnh Công
Minh[95], đại biểu Quốc Hội khóa VI năm 1976, nói trong
một bài tham luận tại phiên họp Quốc Hội ngày
07.07.1977, sau khi Tổng bí thư Lê Duẩn đọc Báo Cáo
Chính Trị: “Báo cáo chính trị làm cho tôi thêm xác tín
rằng mẫu con người mới, mẫu xã hội mới mà Quốc hội sẽ đề
ra để toàn dân ra sức thực hiện trong giai đoạn lịch sử
này chẳng những không có gì mâu thuẫn với tôn giáo, với
tín ngưỡng chân chính, trái lại còn rất phù hợp với Tin
Mừng của Chúa Kitô Giêsu. Báo cáo chính trị làm cho tôi
càng xác tín thêm nữa rằng con người mới, xã hội mới mà
mọi người đều mơ ước, mà mọi người tin vào Chúa Kitô
Giêsu mãi mơ ước, con người mới đó, xã hội mới đó không
thể có được, không bao giờ có được nếu không có Đảng Lao
Động VN, đội tiên phong của giai cấp công nhân lãnh đạo
và tổ chức. Phần tôi, tôi nguyện suốt đời phục vụ cho sự
nghiệp đại đoàn kết dân tộc trên cơ sở yêu nước, yêu
CNXH, suốt đời làm nhịp cầu nối kết quần chúng CG mà đại
bộ phận là nhân dân lao động, với đại gia đình VN, kiên
quyết đập tan mọi âm mưu chia rẽ, đội lốt tôn giáo, lợi
dụng tín ngưỡng của đế quốc và tay sai.” (Thông tấn xã
VN, 07.07.77).[96]
Những ai có gần gũi với ĐC Bình và Lm Minh lúc bấy giờ
đều biết cả hai vị này rất xác tín về những điều các
ngài tuyên bố. Tuy nhiên, lập trường chính trị của Lm
Minh thì hoàn toàn sát cánh với chính quyền Cách Mạng,
còn ĐC Bình thì lúc nào cũng nhìn thời cuộc dưới góc độ
của Đức Tin. Chiến tranh đã chấm dứt, chế độ Miền Nam đã
tan rã, Hội thánh không thể dửng dưng với tình hình mới…
Đức Tin cho phép hai vị này tin rằng con người cộng sản,
vì là người, có thể tốt được. Đối với ĐC Bình, chỉ còn
có một con đường trước mặt: Không thể gây chiến, gây bất
ổn nữa; phải chấp nhận hòa bình hiện có, chấp nhận chế
độ mới, đối thoại và hợp tác với họ; như vậy có nghĩa là
chấp nhận chủ nghĩa xã hội, và với Niềm Tin nơi Chúa
Ngài hy vọng học thuyết xã hội công giáo có thể đồng
hành và may chăng đóng góp vào việc kiện toàn chủ nghĩa
xã hội này.
3.2.2-- Vui mừng trước viễn tượng thống nhất đất nước
Thư chung của Đức TGM Nguyễn Văn Bình ngày 22.11.1975
xác nhận «nước Việt Nam là một, Dân tộc Việt Nam là
một»[97] : «Thống nhất quả là niềm Vui và niềm Tự hào
lớn lao của toàn Dân ta.(…) Là người Việt Nam công giáo,
chúng ta vui với niềm vui của dân tộc, tự hào với niềm
tự hào của dân tộc, để từ đây tích cực bắt tay vào việc
xây dựng sự nghiệp chung. Với những ai còn dè dặt lo sợ,
tôi xin mượn lời của Thiên Thần đã nói với các Mục đồng
ở Bét-le-em ngày trước để nhắn nhủ rằng: ‘Đừng sợ! Này
Ta đem Tin mừng cho các ngươi về một niềm Vui lớn, tức
là niềm Vui cho toàn dân…’ (Lc 2, 10). NB: Từ con mắt
Đức Tin, trong cái vui của niềm vui dân tộc, ĐC Bình còn
nhìn thấy cái vui đón nhận Tin mừng Chúa đến với toàn
dân!
ĐC Bình còn tin rằng Thống nhất chẳng những là vui sum
họp mà còn vui trước cảnh dân giàu nước mạnh nữa: «Thống
nhất là một niềm Vui lớn. Bởi vì Thống nhất sẽ làm cho
Bắc Nam sum họp một nhà, Thống nhất sẽ làm cho Dân giàu
nước mạnh. (…) Về phương diện kinh tế, sự chia cắt đã
làm cho chúng ta suy yếu, không phát triển được điều hòa
và nhanh chóng. Với sự Thống nhất Đất nuớc, kinh tế hai
miền Nam Bắc sẽ bổ túc cho nhau.»
Ba mươi năm nhìn lại, điều khá lạ lùng là ĐC Bình hồ hởi
ca ngợi sự thống nhất trên cơ sở xã hội chủ nghĩa và xác
quyết chắc chắn có tự do tôn giáo: «Chắc chắn anh chị em
không sợ Thống nhất, mà có lẽ anh chị em sợ Thống nhất
trên cơ sở chủ nghĩa xã hội. Nhưng xã hội chủ nghĩa là
một phương thức sản xuất không cho phép người bóc lột
người, mà nhằm phân chia lợi tức cho hợp lý. Xã hội chủ
nghĩa trên căn bản kinh tế và xã hội như thế không có gì
trái ngược với giáo huấn của Đức Kitô và Giáo hội Người.
Các văn kiện Tòa thánh gần đây, nhất là bức Tông thư của
Đức Phaolô thứ VI gởi Đức Hồng y Môrít Roa (Maurice Roy)
nhân kỷ niệm 80 năm Thông điệp Những vấn đề mới, đã nhìn
nhận điều đó. Bức thư viết: ‘ Ngày nay có nhiều người
Kitô hữu được thu hút bởi các tư tưởng cũng như các hình
thức biến dạng của xã hội chủ nghĩa. Họ tìm thấy trong
tư tưởng xã hội chủ nghĩa một số khát vọng mà chính Đức
tin của họ đã khám phá ra và hằng ấp ủ. Họ cảm thấy như
mình đang nằm trong trào lưu lịch sử đó và muốn hiện
thực những tư tưởng đó’ (số 31).
«Vả chăng các Giám mục thế giới thứ Ba, trong một bản
công bố năm 1967 đã có nói: ‘Xã hội chủ nghĩa đích thực
chính là Kitô giáo sống một cách trọn vẹn bằng cách phân
chia của cải và bình đẳng căn bản. Thay vì tẩy chay xã
hội chủ nghĩa, chúng ta hãy hoan hỉ chấp nhận xã hội chủ
nghĩa như một hình thức xã hội mới đáp ứng nhu cầu của
thời đại và đòi hỏi của Tin mùng’(…)… Nhưng có lẽ anh
chị em sợ xã hội chủ nghĩa vô thần. Thực ra thì Đất nước
chúng ta đang được lãnh đạo bởi Đảng Lao động, một Đảng
Mácxít Lêninít. Người Mácxít không tín ngưỡng nhưng vẫn
tôn trọng tín ngưỡng của người khác. (…) Đảng, Mặt trận
và Chính phủ đã nhiều lần, qua nhiều văn kiện, khẳng
định quyền tự do tín ngưỡng của nhân dân. Và thực tế là
sau 58 năm xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô cũng như sau 30
năm xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, và các nước Đông Âu,
tôn giáo vẫn còn và còn một cách sung túc.»
ĐC Bình khuyên mọi tín hữu «nhận định cho đúng hướng đi
của Lịch sử cũng như của Dân tộc, để cùng toàn dân nỗ
lực xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, Thống nhất, Độc
lập, Dân chủ, Giàu mạnh cho mọi người. (…) Thống nhất có
thể là một cơ hội cho Chúa đến. (…) Và ở đâu có Công
bằng và Tình thương, thì ở đó có Chúa.» Ngày nay, người
ta có quyền tin rằng những lời huấn dụ này là những lời
trung thực đến từ thẩm quyền mục vụ của vị Chủ Chăn,
nhưng vẫn lấy làm khó hiểu tại sao Đức Cha Bình có thể
thản nhiên nhận định là ở các nước xã hội chủ nghĩa,
nhất là ở Miền Bắc, «tôn giáo vẫn còn và còn một cách
sung túc» được!
Ngày nay nhìn lại, chắc chắn ta phải khẳng định Đức Tổng
Giám mục Nguyễn Văn Bình có một niềm vui và tin tưởng
thật sự trước việc thống nhất đất nước dưới chế độ xã
hội chủ nghĩa, vì lẽ, hơn một năm sau, trước Hội nghị
đại biểu nhân dân miền Nam (tức các đại biểu Quốc Hội
đến từ miền Nam) nhóm họp tại Saigon ngày 20.12.1976,
Ngài còn giữ nguyên niềm phấn khởi trước đó. Ngài phát
biểu[98]: «Niềm vui của người Việt Nam công giáo chúng
tôi là niềm vui phát xuất từ đáy lòng, từ tim óc, chứ
không phải chỉ là niềm vui thông thường theo thời tiết.»
Ngài còn viện dẫn Đức Tổng giám mục Huế (cũng là người
gốc Miền Nam và tin tưởng vào chủ nghĩa xã hội như Ngài)
để xác nhận «niềm phấn khởi và vui mừng» của Ngài cũng
hoàn toàn trùng hợp với ĐC Điền: «Bởi vì như Tổng giám
mục Nguyễn Kim Điền, người anh em của chúng tôi, đã nói
trong Thông cáo ngày 22.11.1975 (…) rằng: ‘Lý tưởng xã
hội chủ nghĩa, trong đó không còn cách biệt giai cấp,
không còn người bóc lột người, mà trái lại mỗi người làm
theo khả năng và hưởng theo nhu cầu, kính trọng nhau
trong tình huynh đệ thắm thiết (Xem sách Công vụ các
Tông đồ 2, 42-47), xã hội chủ nghĩa với quyền tự do tín
ngưỡng thực sự, mà nhiều lần và nhiều cách, được Hồ chủ
tịch và Chính quyền Cách mạng bảo đảm, sẽ phù hợp với
đạo lý Kitô giáo. Lý do là các việc tốt mà đạo Thiên
Chúa dạy phải làm cho Tổ quốc và cho đồng bào trong bất
cứ hoàn cảnh thuận hay nghịch, thì hôm nay các việc tốt
đó cũng lại được Nhà nước cổ võ và có hoàn cảnh thuận
lợi để làm’. »
ĐC Bình tiếp: «Ở đâu có công bằng và tình thương, thì ở
đó có Chúa chúng tôi có mặt, như Người thường nói. Đó
không phải là niềm tin riêng của người Việt Nam công
giáo, mà chính là niềm tin chung của tất cả những ai tin
tưởng ở Đức Kitô. Đại hội các Giáo hội Kitô giáo ở Á
Châu về phát triển họp tại Tôkyô (Tokyo) ngày 22.07.1970
đã có tuyên xưng, và chính các Giám mục chúng tôi đã lập
lại trong bản Tuyên ngôn tháng 11.1970 rằng : ‘Nơi nào
có kẻ bệnh tật được chữa lành, kẻ đói được ăn no, kẻ bị
giam cầm được giải phóng, nơi nào các cá nhân và các
cộng đoàn được hòa giải, các quốc gia sống hòa bình và
cộng tác với nhau, chúng tôi đều thấy có bàn tay của
Thiên Chúa. Thiên Chúa cũng đã nhúng tay trong phạm vi
khoa học, kỹ thuật và văn hóa khi những thứ đó phục vụ
hạnh phúc của con người’. Trong niềm tin đó, cũng như
trong niềm tin chung và phấn khởi chung của toàn dân,
người Việt Nam công giáo long trọng tuyên bố phê chuẩn
hoàn toàn kết quả cuộc Hội nghị Hiệp thương Chính trị về
Thống nhất Tổ quốc.» -- ĐC Bình có đi quá xa không khi
nhân danh tập thể người công dân công giáo tuyên bố phê
chuẩn việc thống nhất đất nước?
3.2.3-- Tết Bính Thìn 1976 : một năm nhìn lại, cần phải
canh tân hơn nữa
Trong thư chúc Tết Bính Thìn[99], Đức Tổng giám mục
Nguyễn Văn Bình khẳng định tiếp lòng tin tưởng và lòng
«tạ ơn Chúa đã hướng dẫn Hội thánh qua mọi bước phát
triển của lịch sử, và làm cho chúng ta đuợc lớn mạnh
thêm trong lòng tin và lòng mến » và làm cho Hội thánh
được canh tân hơn. Trong cái nhìn Đức Tin đó, Ngài cho
rằng «Cách mạng là vận hội chung của dân tộc » và cũng
là vận hội riêng của người công giáo để sống tận cùng
Phúc Âm Chúa: «Cách mạng là vận hội chung của dân tộc,
để đào thải đi những sự bất công, áp bức, tệ đoan đã
từng làm băng hoại con người và xã hội. Khi Cách mạng
làm đổ sập cơ cấu xã hội cũ, thì đồng thời người công
giáo chúng ta cũng được gần tinh thần Phúc Âm hơn, vì
hoàn cảnh cách mạng làm cho chúng ta có cơ hội để sống
một cách đơn giản hơn, vô vị lợi hơn, có tinh thần phục
vụ hơn.» Đúng vậy, Giáo hội Miền Nam đã thực sự trở nên
nghèo, trắng tay, bần cùng hóa như mọi người dân, vì tài
sản của Giáo hội (trường học, bệnh viện bệnh xá và các
cơ sở từ thiện, văn hóa, xã hội của Giáo hội) đã được
Chính quyền Cách mạng chiếu cố xung công hết kể từ ngày
07.10.1975… !
ĐC Bình tự kiểm, xét rằng sự hiểu lầm nhau trong Giáo
hội (đối với Cách mạng) có phần giảm bớt: «Tất nhiên
cũng có những khó khăn, (…) phát sinh hoặc do những điểm
không thích hợp với xã hội mới, hoặc là do sự hiểu lầm
giữa anh chị em trong Giáo hội, hoặc là do trong nội bộ
chúng ta chưa canh tân đúng mức. (…). Nhưng dù sao, nhìn
chung, (…) nhiều vấn đề đã được giải quyết êm thắm, các
Dòng tu, Chủng viện đã mau chóng thích ứng với xã hội,
sự hiểu lầm nhau trong Giáo hội, với thời gian, có phần
giảm bớt. Giáo hội đã làm hết sức mình để có thể góp
phần hữu hiệu và cụ thể cho phúc lợi của dân tộc.»
Tết đến, cần phải đổi mới đời sống, canh tân tâm hồn,
theo tinh thần Công Đồng Vatican II: «Năm Bính Thìn, năm
thống nhất và xây dựng lại quê hương, là một thời gian
đòi hỏi các tín hữu sống trọn vẹn Tin mừng của Chúa.
Trong Thư chung nhân ngày Quốc Khánh 2.9 bừa qua, tôi đã
nhắc nhở anh chị em phải canh tân thì mới tiến được.
Canh tân không những là một đòi hỏi của dân tộc mà còn
là đòi hỏi Giáo hội và của Chúa. Chúa đòi chúng ta luôn
luôn hồi tâm, xét lại những gì còn thiếu sót, trong sinh
hoạt, trong tổ chức, trong tâm tư của chúng ta, để trở
về sự sống của Chúa. (…) Kitô hữu nào cũng phải cố gắng
đổi mới bản thân hằng ngày, để thắm nhuần và chiếu tỏa
thêm Tin mừng của Chúa.»
ĐC Bình nhìn thấy trong Tin mừng một động lực tuyệt hảo
để canh tân trong nếp sống xã hội chủ nghĩa: «Dân tộc ta
bắt đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tinh thần của chủ
nghĩa xã hội là lấy sự tương thân tương ái phục vụ cộng
đồng thay thế cho sự tham lam bừa bãi để hưởng thụ riêng
tư, lấy sự phục hồi phẩm giá của con người và giá trị
đúng đắn của lao động để thay thế cho những cơ cấu bất
công và bóc lột. Kitô hữu chúng ta phải thấy rằng mình
có thể tìm được trong Tin mừng của Chúa một động lực
tuyệt hảo để sống tinh thần ấy.»
Thiên Chúa là sự sống, cần học hỏi Phúc Âm để biết ứng
dụng vào cuộc sống, và tín hữu phải sống lòng tin của
mình một cách chủ động và sáng tạo: «Toàn thể Giáo hội
cũng như mỗi họ đạo, mỗi cộng đoàn, mỗi nhóm tín hữu,
mỗi người đều phải sống lòng tin của mình một cách chủ
động và có sáng tạo. Đạo Chúa không phải là cái gì bất
động. Đạo Chúa như hạt giống gieo xuống đất và mọc thành
cây và cây thì sẽ sinh thêm hoa, kết thêm trái theo từng
mùa. Giáo hội cũng vậy, phải sinh hoa kết trái qua thời
đại của mình. (…) Vì thế, chúng ta cần phải học hỏi giáo
lý Phúc Âm, đó không phải là những lời kêu gọi chiếu lệ,
nhưng thật sự là nhiệm vụ của chúng ta trong năm mới
này, và mọi thành phần Giáo hội đều có trách nhiệm tìm
ra những điểm ứng dụng cụ thể.»
Để tóm lại định hướng của năm mới: đoàn kết, đối thoại,
thông cảm, yêu thương nhau hơn nữa, và canh tân đường
lối mục vụ: « Sang năm Bính Thìn, tôi mong rằng cộng
đồng công giáo chúng ta sẽ đoàn kết hơn nữa, biết đối
thoại và thông cảm với nhau hơn nữa, chúng ta hãy lo làm
sao cho tất cả anh chị em chúng ta được tình bác ái chân
thành sưởi ấm và được hạnh phúc trong đại gia đình Dân
Chúa, phụng vụ, giáo lý và mọi sinh hoạt có tính cách
mục vụ nên được xét lại để cho nội dung được phong phú
hơn và đáp ứng một cách thiết thực và sâu sắc hơn nhu
cầu của tất cả anh chị em cũng như của xã hội.»
3.2.4-- Giáo hội được «sai đi »: đi kinh tế mới, Nông
trường Đoàn Kết, thủy lợi
Đức Tổng giám mục Nguyễn Văn Bình nhìn thời cuộc dưới
nhãn giới của Tin mừng, của đường hướng «hòa nhập văn
hóa» của Công Đồng Vatican II, của sứ mạng rao giảng của
Giáo hội. Trong bài phát biểu tại cuộc họp tu sĩ ngày
04.06.1976 [100] cũng như trong thư luân lưu gửi toàn
thể linh mục, tu sĩ và tín hữu [101], ĐC Bình nhìn việc
đi kinh tế mới, đi làm thủy lợi, hay đi Nông trường Đoàn
Kết như việc Giáo hội được Chúa sai đi rao giảng bằng
đời sống và bằng việc lao động chân tay, «để làm bật
sống dậy sức sống Phục Sinh đổi mới của Đức Kitô trong
lòng xã hội chúng ta đang sống», theo thư luân lưu.
Thư luân lưu viết tiếp: «Hội thánh được sai đến mọi nơi.
Ở bất cứ nơi nào mà con người bước chân vào một môi
trường mới, một hoàn cảnh lịch sử mới, thì những người
tin vào Đức Kitô cũng hòa mình với anh chị em đồng loại
của mình mà đi tới, mang trong lòng niềm hy vọng và mến
thương, cứ như thế cho đến tận cùng thế giới (Mt 28,
20). Đó là mầu nhiệm được sai đi của Hội thánh (người
viết xin gạch dưới).
«Ngày nay cũng trong mầu nhiệm đó, các vùng kinh tế mới
đang chờ đón chúng ta. Cùng với đông đảo đồng bào, nhiều
anh chị em tín hữu đã đi tới đó, và sẽ đi tới đó sau
này. Đây là lời mời gọi khẩn thiết cho Hội thánh Việt
Nam làm dấu chứng cho Nước Trời. Đây là cơ hội thuận lợi
để Hội thánh hiện diện tích cực giữa lòng Dân tộc và thể
hiện Tin mừng tình thương của Chúa Kitô trong khung cảnh
hiện đại của đất nước. Đây là dịp Hội thánh thực hiện
canh tân và sống mãnh liệt sức sống của Chúa Kitô Phục
sinh.» -- Nên nhớ, ĐC Bình nói rõ đây là «cơ hội», là
«dịp » để «Hội thánh Chúa làm dấu chứng cho Nước Trời»,
chớ không cho một nước trần thế «xã hội chủ nghĩa» nào
hết; đó là quan điểm của Ngài.
ĐC Bình là vị Chủ Chăn lâu đời nhất của Giáo hội VN,
biết rõ bụng dạ của con chiên mình trước cũng như sau
1975, biết nhiều về đời sống tu hành của các Dòng tu
trong giáo phận Ngài và có lòng đạo đức mong muốn canh
tân sâu sắc Giáo hội, nên Ngài không ngần ngại cổ võ cho
việc «hòa nhập văn hóa» kiểu chân lấm tay bùn với mọi
người dân, cho dù phải lấn vào phạm vi của cán bộ viên
chức nhà nước trong công tác vận động bà con công giáo
tham gia lao động xã hội chủ nghĩa với chiêu bài «lao
động là vinh quang». Trong thư luân lưu, Ngài nói rõ:
«Giáo hội sẽ không mong ước một đặc quyền nào, mọi nỗ
lực sẽ dành để gây nên một lối sống đạo bám vào thực tế.
Chúng ta cũng sẽ nhân dịp này để đẩy mạnh cuộc canh tân,
sửa đổi một số khuyết điểm mà trước đây Hội nghị các
Giám mục Á Châu đã phát hiện, như lối sống khép kín, quá
chú trọng bảo vệ các quyền lợi riêng tư của giới công
giáo, v.v.»
Ngài tiếp: «Chính trong tinh thần này mà một số cộng
đoàn nữ tu đã được thành lập ở vùng kinh tế mới, và các
tu sĩ nam nữ đã đông đảo tham gia ngày xuất phát đi xây
dựng Nông trường Đoàn Kết ngày 16.04.1976. Nhiều nơi
khác, các tu sĩ nam nữ đã cùng với anh chị em giáo dân
đi làm thủy lợi, đào kinh, dựng nhà, v.v. »
Cuối thư luân lưu, ĐC Bình lại nhồi thêm lời giáo huấn
của Vatican II: «Anh chị em hãy ra đi và thể hiện tinh
thần phục vụ khiêm tốn của Hội thánh. Như Công Đồng
Vaticăng II đã dạy, không thể nào «vì dấn thân với Chúa
Kitô, mà chúng ta quay lưng bỏ những nhiệm vụ và công
việc trần thế. Trái lại, lòng tin, lòng trông cậy, lòng
mến Chúa Kitô thúc đẩy chúng ta phục vụ anh em mình, vì
biết rằng Chúa đã hy sinh mạng sống vì chúng ta, thì
chúng ta cũng phải hy sinh vì anh em chúng ta. (Tín thư
của các Nghị phụ ngày 20.10.1962) »
Trong bài phát biểu tại cuộc họp tu sĩ, ĐC Bình nhìn
thấy, sau «hai đợt đi lao động ở nông trường thủy lợi
vừa qua», có sự canh tân trong Giáo hội của Ngài, nơi
các linh mục là những người «cứ tưởng rằng hễ chịu chức
linh mục rồi là cả thiên thần cũng phải quỳ xuống hầu hạ
mình » cũng như nơi các tu sĩ đã chịu «sống cởi mở và
phục vụ anh em, chứ không khép kín như trước (…) và lo
sợ tiêu cực» (người viết xin nhấn mạnh) .
Ngài nói tiếp đó là «việc truyền giáo bằng đời sống cụ
thể. Thấy linh mục và tu sĩ xông xáo lội bùn, bốc đất,
làm hăng hái không thua gì ai, chẳng một chút gò bó ép
uổng miễn cưỡng, nhưng rất là vui vẻ đơn sơ tự nhiên cởi
mở, thật đáng vui mừng. Ta tham gia phục vụ không những
vì yêu nước, mà vì để sống Đức tin nữa. (…) Trước kia,
linh mục và tu sĩ thường mang tiếng là chỉ ngồi bắt
người ta hầu hạ[102]. Ta xét lại thì thấy điều đó có
thật, chẳng không đâu. Đừng sợ mặc cảm, đó là sự thật do
hoàn cảnh không tốt đã tạo ra. (…) Nếu những người không
đồng tư tưởng có phê bình chúng ta là trưởng giả, ích
kỷ, xa cách quần chúng… sao không biết nhìn nhận phần
lỗi của mình để sửa sai, mà lại cứ trách móc đổ lỗi cho
người ta là ác ý với mình? Tham gia hăng hái công trình
thủy lợi thì được nhiều ích thiêng liêng và càng tỏ lòng
yêu nước của mình, không còn sợ ai trách mình ích kỷ
nữa, và ta xóa được thành kiến nếu có.»
Ngài kêu gọi các linh mục tu sĩ hiểu cho thái độ tích
cực, chủ động của Ngài: «Còn nhiều cha và anh chị không
hiểu thái độ tích cực của tôi. Tôi thiết tưởng chúng ta
phải chủ động, làm được gì thì phải cho tích cực, phải
chủ động tham gia, đừng e dè ngờ vực. Có kẻ sợ rằng
người ta không tin tưởng mình, nên mình đừng quá theo
người ta. (…) Khi mình làm chuyện lợi ích, việc tốt, xây
dựng, phục vụ, thì có gì mà phải sợ? (…) Nếu rủi có bị
hiểu lầm thì cũng không sao, khi không phải là tại lỗi
mình nữa. Còn thái độ ngờ vực, e ngại, tiêu cực, nhất là
cứ phàn nàn kêu trách, thì không giấu giếm được đâu,
người ta biết hết, và mình đâu có được ích gì.» Nên
hiểu, «người ta» nói đây là cán bộ nhà nước, đảng viên,
lúc nào cũng rình mò, xoi mói, báo cáo để làm khó dễ đủ
điều…[103]
3.2.5-- Mạnh mẽ lên án việc làm phi pháp ở nhà thờ Vinh
Sơn
Một chuyện đáng buồn, tuy nhỏ mà xít thành to, vì xảy ra
vào lúc tình hình an ninh hãy còn khá «nhạy cảm» sau
tháng 4.1975. Đúng, có «những biến cố do người công giáo
chủ mưu đã làm cho sự ngờ vực từ phía người cộng sản gia
tăng. Chẳng hạn vụ Vinh Sơn năm 1976, do linh mục chính
xứ Vinh Sơn và một vài người chủ xướng, đơn phương dùng
vũ lực chống lại Chính quyền và dùng thánh đường như một
pháo đài từ đó bắn về phía nhân viên công lực. Một nốt
nhạc lạc lõng trong bản hòa tấu mà Giáo hội công giáo
tại Giáo phận Sàigòn đang trình diễn dưới quyền điều
khiển của người nhạc trưởng tài ba là Đức Tổng giám mục
Nguyễn Văn Bình. Vị nhạc trưởng đã phải thốt lên nỗi
niềm cay đắng: ‘… Tôi rất buồn trong cái tình trạng thật
là đau khổ của tâm hồn tôi, tôi thấy không biết dùng lời
nói nào để tỏ ra cái tâm tình của tôi trong lúc này (…)
tôi rất tức giận, nói được rằng: Tôi chịu không nổi và
một cách công khai tôi phải nói rằng tôi lên án các việc
làm lợi dụng tôn giáo, lợi dụng cơ sở tôn giáo làm những
việc hết sức là phi pháp như thế…’ (trích phát biểu của
Đức Tổng giám mục Nguyễn-Văn-Bình về vụ Vinh Sơn tại Hội
trường Ủy ban Nhân dân cách mạng Quận X ngày 14.1.1976).
Vài năm sau, khoảng 1979-1980, linh mục Nguyễn-Văn-Vàng
tự phong là quốc trưởng và cùng với một số bộ hạ lập mật
khu với ý đồ lật đổ Chính quyền.» [104]
Tại sao ĐC Bình rất buồn và tức giận, khi mà hành động
phi pháp của linh mục chính xứ Vinh Sơn xuất phát từ
quyền công dân của người công giáo? Tại sao những hành
động cá nhân có thể liên lụy đến cả một tập thể là giáo
phận Sàigòn? Thưa tại vì việc làm phi pháp này xảy ra
đêm 12-13.02.1976 ngay bên trong nhà thờ Vinh Sơn do Lm
chính xứ Nguyễn Quang Minh phụ trách dưới Bản Quyền của
Giáo phận Sàigòn. Trong bài phát biểu (nói trên), ĐC
Bình nhìn nhận: «Vì là lãnh đạo tinh thần của giáo phận,
nhà thờ ở trong giáo phận, linh mục là linh mục của giáo
phận, thì tất nhiên tôi không nói gì khác hơn là nhìn
nhận rằng tôi gián tiếp có phần trách nhiệm ở trong đó.»
Và hơn nữa, ĐC Bình nêu rõ lý do riêng của Ngài: «Một sự
việc xảy ra nghịch lại với biết bao những điều răn bảo
của giáo quyền (Ghi chú của người viết: tức ĐC Bình),
một việc làm có tính chất phản quốc, mà nhứt là điều mà
giáo quyền nói đi nói lại luôn luôn là không nên để cho
tôn giáo bị lợi dụng, bị khai thác ngoài tôn giáo, những
cơ sở tôn giáo phải được tôn trọng và chỉ được sử dụng
trong những công việc thuần túy tôn giáo mà thôi.»
Tóm lại, trước tình hình kháng cự suốt đêm 12 rạng 13
bên trong nhà thờ Vinh Sơn đang khi có hai linh mục (mà
một là Lm quản lý của giáo phận) và một giáo dân được
chính quyền điều đến có ý để giàn xếp mà không được,… ĐC
Bình thấy phải lên tiếng đứng mũi chịu sào «nhận phần
trách nhiệm»[105] về mình và còn hứa sẽ nỗ lực răn bảo
hơn nữa để «đừng có xảy ra» những sự việc đáng tiếc như
thế, để rồi Chính quyền không thể vin vào cớ này cớ nọ
mà cấm đoán việc hành đạo tại các nhà thờ. ĐC Bình còn
đe thẳng thừng rằng nếu người «công dân» linh mục không
nghe lời Ngài thì Ngài không có cách nào bảo vệ giáo hội
trước khí thế bạo lực cách mạng được. Ngài nói tuốt
luốt: «Chúng tôi dù đấng bậc nào, Giám mục, linh mục
hoặc là nhà thờ, cơ sở nào, chúng tôi luôn luôn phải là
bình đẳng như tất cả mọi người công dân. Nếu một vị nào
phạm pháp thì chính quyền dùng luật pháp cư xử như mọi
người công dân khác. (…) Thật thì theo tôi giá như trước
một sự việc như thế mà chính quyền bất đắc dĩ muốn dùng
biện pháp cho mau chóng mà phá hết cái nhà thờ, tôi cũng
không nói gì hết. (…) (Trái lại), những việc và biện
pháp mà chính quyền đã dùng tại nhà thờ Vinh Sơn đó
không có chút gì là bài đạo, không có chút gì là phá nhà
thờ cả»…
Cuối cùng, để trấn an chính quyền và để «chận họng» họ
đừng vơ đũa cả nắm, ĐC Bình kết bài phát biểu như sau:
«Tôi mong rằng không có gì với sự việc đáng tiếc đã xảy
ra mà chính quyền nghi ngờ bên chúng tôi, mà trái lại,
dầu sự việc đã xảy ra một cách riêng rẽ tại nhà thờ Vinh
Sơn thì chính quyền cũng hiểu rằng, bao giờ (…) chúng
tôi cũng thành thật mong muốn góp sức với chính quyền để
xây dựng dân tộc, Tổ quốc đoàn kết và giàu mạnh.»
3.2.6-- Đức Cha Bình nhiệt thành với đường hướng «hòa
nhập văn hóa»
Trong thư chúc Tết Đinh Tỵ 1977[106], ĐC Bình xác nhận
lại yêu cầu người công giáo sống hòa đồng hoàn toàn với
người Việt Nam: «Hơn bao giờ hết, sự ấm no thịnh vượng
của mỗi người chúng ta, của con cháu chúng ta, không thể
tách rời với sự ấm no thịnh vượng của mọi người, không
thể tách rời với bước tiến chung của dân tộc. (…) Tôi
cầu chúc anh chị em «không còn mắc nợ gì ai, trừ phi là
yêu thương nhau» (Rm 13, 8), yêu thương Tổ quốc, đồng
bào mình, yêu thương nhân loại. Món nợ yêu thương đó
chúng ta sẽ không bao giờ trả hết được một khi đã tin
nhận và muốn theo Chúa Giêsu là Đấng đã sống chết vì
tình thương lớn lao nhất (Gn 15,13). (…) Nhân ngày Tết
đến, tôi mong muốn mấy dòng này không phải là những lời
chúc mừng chiếu lệ mà là dấu tỏ ‘tôi hằng có anh chị em
canh cánh trong lòng tôi… Có Thiên Chúa chứng giám cho
tôi là tôi trìu mến anh chị em tất cả trong lòng dạ Đức
Kitô Giêsu’».
Trong thư gởi tín hữu đi xây dựng vùng kinh tế mới nhân
lễ Phục Sinh 1977[107], ĐC Bình tận tình khích lệ sự dấn
thân hòa đồng của người công giáo vào nếp sống vô cùng
gian khổ của hằng triệu đồng bào cả nước: «Anh chị em là
những người can đảm xông ra tiền tuyến kinh tế mới, anh
chị em đang tích cực chấp nhận những hy sinh gian khổ
trong môi trường lao động nặng nhọc vất vả và còn túng
thiếu mặt này mặt khác. Đây là bước đường dẫn đưa tới
vinh quang Phục sinh ngày mai tươi sáng. Phục sinh không
những trong tâm tình được đổi mới, Phục sinh còn được tỏ
ra trong việc xây dựng cuộc sống mới ấm no và huynh đệ
cho tất cả dân tộc ta. (…) Công cuộc này đòi hỏi nơi anh
chị em nhiều can đảm, nhiều quảng đại, nhiều đức tin để
phấn đấu…»
Bất luận lúc nào có thể được, ĐC Bình cũng cố gắng đem
Lời Chúa gieo vào nền văn hóa hiện thực của đất nước, mà
đó là nền văn hóa xã hội chủ nghĩa đang thành hình, với
một thứ «ngôn ngữ» hiện được sử dụng, để mong Lời Chúa
thấm nhập dần vào. Trong thư chúc Tết năm Mậu Ngọ
1978[108], Ngài nói: «Chúng ta không sống đức tin một
cách bâng quơ, nhưng là giữa hoàn cảnh cụ thể của đất
nước ta, dân tộc ta. Trong giai đoạn lịch sử quan trọng
này, tức là giai đoạn cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây
dựng chủ nghĩa xã hội mà mục tiêu là làm cho mọi đồng
bào và mỗi đồng bào được ấm no hạnh phúc. (…) Trong năm
qua, chúng tôi vui mừng nhận thấy cộng đoàn Kitô hữu
chúng ta, linh mục, tu sĩ, giáo dân đã có mặt đông đủ
trên các mặt trận sản xuất ở các nông trường, công
trường, các hợp tác xã, các tổ hợp; cũng đã đóng góp
nhiều ý kiến xây dựng trong nhiều sinh hoạt công dân
khác, v.v. Điều đó nói lên quyết tâm phục vụ đồng bào và
xây dựng dất nước của những người tin Chúa.»
Muốn «hòa nhập văn hóa» trong thời hiện đại của đất
nước, người công giáo Việt Nam cũng cần nhìn và hiểu
duyên do có hiện trạng xã hội đương thời. Trong bài nói
chuyện với tu sĩ ngày 03.03.1978[109], ĐC Bình giải
thích: «Trong lịch sử truyền giáo ở nước ta, chúng ta đã
bị đặt trong tình trạng khó có thể biểu lộ tình yêu tha
thiết ấy đối với quê hương. Ngày trước, ở chủng viện, hễ
ai nói tới chuyện yêu nước là khó có hy vọng được chịu
chức linh mục. Tôi nhớ hồi Đức cha Nguyễn Bá Tòng mới
chịu chức giám mục đầu tiên của Việt Nam, vô thăm chủng
viện, có một thầy đã dăng một biểu ngữ chúc mừng bằng
tiếng la tinh: ‘Tu gloria Jerusalem, tu laetitia Israel’
(Người là vinh hiển của Giêrusalem, người là niềm vui
của Israel) với ý chỉ sự vinh dự của nước Việt Nam. Mới
có một biểu ngữ bằng tiếng la tinh như vậy thôi mà thầy
đó đã không còn được chịu chức linh mục nữa.»
ĐC Bình nói tiếp: «Rõ ràng là ở thời thuộc địa[110],
thực dân không muốn cho chúng ta biết đến quê hương và
tìm mọi cách ngăn chặn chúng ta yêu nước. Bởi thế, trong
lúc bao nhiêu người phải trốn chui trốn nhủi để tìm cách
giành lại độc lập cho Tổ quốc thì rất nhiều người công
giáo đã sống như không có quê hương. Tôi còn nhớ, có một
số linh mục Khu Tư đi theo phong trào cách mạng yêu nước
thì đều bị đày ải vào mãi trong Nam này rất khổ
cực[111]. Chính tôi hồi còn trẻ, làm cha xứ ở Đức Hòa,
cũng đã bị bắt buộc phải đi dự xử mấy vụ án giết mấy
người mang tội là… cộng sản. Tôi rất uất ức trong lòng
vì biết rằng sở dĩ họ bị giết như vậy cũng chỉ vì họ là
những người yêu nước.
«Ngày nay, chính những người cách mạng từng chịu tù đày,
gian khổ hàng mấy chục năm trời vì yêu quê hương đất
nước ấy lên nắm chính quyền. Với nhiệt tình yêu nước, họ
muốn làm sao cho mọi người, mọi giới trong đó có các
linh mục, tu sĩ chúng ta tràn đầy lòng yêu nước và biết
hy sinh cho Tổ quốc như mình. Bởi đó, ta đừng có phê
phán theo chủ quan, đừng có nhìn cách mạng theo lối nhìn
quá khứ. Chẳng hạn như về vấn đề dòng tu, ta đừng có xét
theo quan niệm lỗi thời ngày trước mà sai lạc hết. Phải
biết rằng Nhà nước đang đặt nặng vấn đề an ninh. Bởi vì
giành lại được độc lập rồi, phải lo sao cho tình hình
nước nhà được ổn định mọi nơi mới mong xây dựng được một
nền kinh tế vững mạnh để toàn thể đồng bào được ấm no.
(…) Ở bên ngoài thì người ta không để cho chúng ta yên
ổn mà làm ăn, như tình hình biên giới hiện nay cho thấy
rõ[112]. Còn bên trong lại vẫn có những bàn tay đế quốc
để lại tìm cách tiếp tục gây xáo trộn. (…) Sở dĩ có nhà
lãnh đạo đã phải tỏ ý bực bội với chúng ta, chính là vì
chúng ta cứ như không chịu hiểu, không biết thông cảm
với những khó khăn của cách mạng và cứ tiếp tục suy
nghĩ, lý luận theo nếp cũ. (…) Trong chuyện đi lại,
chúng ta có gặp khó khăn. Nhưng cứ xem đường dây liên
lạc, như trong trường hợp của cha Vàng từ trên Phương
Lâm, Gia Kiệm lần xuống mãi tận cùng Cái Sắn thì hỏi làm
sao chúng ta không gặp khó khăn cho được?»
Tại các nước cộng sản, các dòng tu đều bị hoặc tiêu diệt
hoặc bị hạn chế đủ cách. ĐC Bình rất hiểu điều đó, và
tìm cách giải thích cho các tu sĩ của Ngài hiểu được
«ngôn ngữ » của văn hóa xã hội chủ nghĩa VN đối với các
dòng tu. Ngài nói: «Đối với các tu viện, cách mạng phải
để ý đến rất nhiều, phải bận tâm hơn là các linh mục
triều. Các linh mục triều tương đối dễ biết vì sống giữa
dân chúng. Còn dòng tu, cách mạng khó mà hiểu biết được
mau chóng vì lối sống khép kín của tu sĩ. Đối với cách
mạng, mình đừng nên có nội cấm, mình đừng có bảo: đây là
ranh giới nội cấm của chúng tôi, xin đừng vào! (…) Người
cộng sản không chịu được sự quanh co, giả dối. Nếu mình
dám sống thật Tin mừng thì người cộng sản cũng thương
mến mình. (…) Nhà Kín Sàigòn ngay từ đầu đã mời cán bộ
vào thăm, có nội cấm gì đâu. Họ xem hết, biết hết rồi
thôi, ai còn muốn tọc mạch gì về mình nữa.»
Hình như lúc bấy giờ ĐC Bình được Chính quyền thông báo
cho biết những lo ngại của họ về một số hành động mà
cách mạng gọi là «mờ ám» đáng nghi ngờ của các dòng tu.
Bởi vì, giọng nói của ĐC Bình có cái gì như lo lắng, bối
rối: «Trong lúc chính quyền hết sức lo lắng về an ninh
thì chính mình cũng phải tỏ rõ lập trường yêu nước mới
được. Việc các tu viện có rắc rối và bây giờ còn khó
giải quyết cho sớm cũng là do ở lập trường các tu viện
còn thiếu rõ ràng. (…) Trong thực tế, chính quyền đã có
quan tâm và, tôi dám nói là, đã chiếu cố đến các dòng tu
nhiều lắm.» Cụm từ «quan tâm» và «chiếu cố» ở chế độ
cộng sản phải được hiểu là các dòng đang bị theo dõi rất
kỹ, và có thể có biện pháp này khác nữa…
Bài nói chuyện với tu sĩ kết thúc với lời nhắc nhở thái
độ khiêm nhu, bình đẳng cần phải có của nhà tu hành; đó
là «ngôn ngữ » phù hợp với văn hóa xã hội chủ nghĩa:
«Sau hết, đạo ta dạy phải khiêm tốn. Chế độ cũ đã khiến
ta khó giữ nổi sự khiêm tốn: đâu mình cũng trên, cũng
trước, cũng được ưu đãi, nên bây giờ bình đẳng thì khó
chịu. Phải thẳng thắn mà nhìn nhận rằng mình cũng là
người như người khác thôi. Và phải yêu nuớc – như mọi
người.»
Tại Hội Đồng Giám mục Thế giới 1977, Đức Tổng Giám mục
Nguyễn Văn Bình đã có dịp trình bày quan điểm «hòa nhập
văn hóa» của Ngài được dư luận bên trong và bên ngoài
Giáo hội hoàn vũ chú ý đến và tán thưởng nhiệt liệt. ĐC
Bình nhận định, sau khi phân tích lịch sử theo nhãn giới
của họ, người Mácxít Việt Nam kết luận rằng «hình ảnh mà
Các-Mác đã phác họa về tôn giáo đã ứng nghiệm trong thực
tế Việt Nam với nét nổi bật là sự liên hệ với đế quốc
(người viết nhấn mạnh). Chúng tôi nêu lên sự kiện này
không phải vì mặc cảm tội lỗi, nhưng để thấy tầm quan
trọng của nó đối với Giáo hội Công giáo. Người cộng sản
(VN) không muốn tranh luận lý thuyết, chỉ muốn thấy thực
tế. Vậy thì Kitô hữu phải trình bày một khuôn mặt mới
của Đức Kitô và Giáo hội. »[113] (Người viết tô đậm).
Ngài nói tiếp rằng khuôn mặt mới của Đức Kitô phải là
khuôn mặt hòa hợp với nền văn hóa xã hội chủ nghĩa trong
nét thực tế này là sẵn sàng chung sức cùng với người
cộng sản xây dựng một xã hội mới: «Đứng trước chế độ
Mácxít đã được thiết lập, một chế độ mà mục tiêu chủ yếu
là qui tụ mọi thành phần để xây dựng quê hương, người
Kitô hữu Việt Nam không muốn lập Ghetto để sống bên lề
xã hội. Tháng 7.1976, trong cuộc họp chung hai giáo tỉnh
Sàigòn và Huế, các giám mục chúng tôi đã nhất trí và dứt
khoát kêu gọi anh chị em tín hữu sống dấn thân góp phần
xây dựng xã hội. Khi chọn thái độ này, chúng tôi không
nghĩ rằng mình đã làm một cuộc cách mạng trong Giáo hội,
nhưng chỉ khiêm tốn làm theo Hiến chế Vui mừng và Hy
vọng của Công Đồng Vaticăng II. Đối với Kitô hữu Việt
Nam, hợp tác với người vô thần như Hiến chế đã nói ở số
21[114], cụ thể có nghĩa là sống trong môi trường do
người cộng sản xây dựng và cùng với người cộng sản xây
dựng một xã hội mới. Bước chân của chúng tôi là dứt
khoát, nhưng vấn đề căn bản vẫn tồn tại: làm sao chung
sống, chung xây với người cộng sản mà vẫn là Kitô hữu và
đem lại phần đặc thù của mình vào trong công cuộc xây
dựng này?» (Người viết tô đậm).
Đức Tổng giám mục Việt Nam nói tiếp rằng những vấn đề
đặt ra cho việc giảng dạy giáo lý có 4, đó là «ai đang
nghe tôi?», «tôi phải nói gì?», «tôi nói để làm gì?» và
«nói thế nào?». Đối với vấn đề 1: «Người nghe tôi giảng
giáo lý là người của xã hội Mác-Lênin, sinh ra và lớn
lên trong xã hội Mác-Lênin, thấm nhuần tư tưởng
Mác-Lênin từ vườn trẻ». Đối với vấn đề 2: «Điều tôi phải
nói là Tin mừng Nước Trời, (…) phải nói hết, không được
bớt xén. Điều họ chờ đợi (…) có nghĩa là nội dung giáo
lý tôi trình bày phải làm sao bao trùm được những gì
người trẻ ngày nay thắc mắc, băn khoăn, mong đợi và đưa
họ vượt xa lên.» Đối với vấn đề 3: «Tôi phải nói để
người trẻ hiểu biết và sống đức tin trong xã hội Mácxít.
(…) Tôi phải giúp người trẻ biết sống và đối thoại với
người Mácxít. Nhưng mấu chốt là câu hỏi thứ tư». Đối với
câu hỏi 4: «Muốn cho người nghe tiếp thu được (điều) tôi
nói, tôi phải nói với họ bằng ngôn ngữ của họ (người
viết tô đậm). Thiên Chúa đã tôn trọng điều kiện ấy, nên
đã nói với loài người qua các tiên tri và cuối cùng,
Người đã nói với chúng ta nơi Con Chí Ái của Người: Lời
đã làm người và ở giữa chúng tôi. (…) Thái độ của thánh
Phaolô ‘Do thái với người Do thái, Hy Lạp với người Hy
Lạp’ có thể ứng dụng cho Kitô hữu sống trong môi trường
Mácxít không?
Ngài giải tiếp với ý rằng «hòa nhập văn hóa» không có
nghĩa là bị đồng hóa: «Dĩ nhiên trình bày giáo lý bằng
ngôn ngữ Mácxít không đồng nghĩa với Mácxít hóa Kitô
giáo, cũng như người ta đã trình bày giáo lý bằng ngôn
ngữ Aristotèles, ngôn ngữ hiện sinh… mà không
Aristotèles hóa, không hiện sinh hóa Kitô giáo, vì Thiên
Chúa, Đấng đã nói với Israel, không chịu để cho người ta
đồng hóa với bất cứ một thần linh nào, và Giêsu cũng
không chịu để cho người ta đồng hóa Ngài với bất cứ một
Đấng Thiên sai nào người Do Thái thời Ngài tưởng tượng
ra. (…) Đó là những vấn đề căn bản. Chúng tôi còn phải
trả lời nhiều câu hỏi cụ thể hơn như: Ai giảng giáo lý?
Giảng ở đâu? Giảng khi nào? Mọi sinh hoạt tôn giáo đều
thu vào khuôn viên nhà thờ. Thời giờ sẽ dành ưu tiên cho
lao động sản xuất.»
3.3-- Mưu cầu sự thống nhất cơ cấu lãnh đạo Giáo hội
Công giáo VN (Hội Đồng GM toàn quốc) để qua đó có được
sự đồng thuận chung trong một đường hướng «hòa nhập văn
hóa» theo tinh thần Vatican II. Trong định hướng này,
Giáo hội khuyến khích mọi tín hữu tích cực «sống Phúc Âm
giữa lòng dân tộc», tham gia hết mình vào các nỗ lực xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc, cũng như tích cực góp phần hòa
giải và hòa hợp dân tộc…
Trước sức ép của bạo lực cách mạng, cách riêng qua nhóm
công giáo «cấp tiến», liên tiếp đòi thành lập cho được
một bộ phận «công giáo yêu nước», GHCGVN rất cần có sớm
một cơ chế lãnh đạo trên cả nước là HĐGMVN và một đường
hướng mục vụ chung được tất cả các thành phần Dân Chúa
trên toàn quốc chấp thuận. Điều này không dễ dàng gì
thực hiện, khi mà Chính quyền Cách mạng còn đầy nghi ngờ
về phía người công giáo và chưa tin tưởng thật sự ở hàng
giáo phẩm công giáo. Thực tế, cộng đồng dân Chúa chỉ là
một thành phần thiểu số (6%) trong xã hội, nên cứ lẽ
thường thì cộng đồng công giáo bị buộc phải chấp nhận
thân phận thiểu số của mình. Thứ đến, thành phần công
giáo ở phía Nam lại có một quá khứ kiên trì chống cộng
và nay phải chung sống hòa bình với người cộng sản, thì
thế nào cũng không tránh khỏi những va chạm giữa đôi bên
mà thế mạnh dĩ nhiên ở về phía kẻ chiến thắng và nắm
quyền, và những thành kiến đối với nhau không thể một
sớm một chiều giũ bỏ được. Để xây dựng thành công việc
chung sống hòa bình và giúp nhau xây dựng đất nước, một
đàng HGPCGVN mong muốn thành lập một cơ cấu lãnh đạo
chung và hy vọng qua đó sự hợp tác với chính quyền cách
mạng sẽ hữu hiệu hơn. Đàng khác, các Ngài và một số tín
hữu thức thời (cả phần đạo lẫn phần đời) đều hy vọng có
thể đạt đến một mức nào đó sự đối thoại và hợp tác với
người cộng sản nhờ đã hiểu rất rõ huấn dụ số 21 của Hiến
chế Vui Mừng và Hy vọng của Công Đồng Vatican II về
đường hướng sống hòa đồng hòa hợp với người cộng sản, và
nhờ tin tưởng nơi cộng đồng dân Chúa sẽ áp dụng luật yêu
thương của Chúa đối với người anh em cộng sản dù chính
kiến và tín ngưỡng đôi bên hoàn toàn trái nghịch nhau.
Đúng theo Hiến chế số 21 vừa nói, từ sau ngày 30 tháng
4.1975, hai Đức Tổng giám mục của hai giáo tỉnh Sàigòn
và Huế đã nhiệt thành cổ võ cho đường hướng «hòa nhập
văn hóa» của GHCGVN trong một đất nước thấy trước là sẽ
trải qua một cuộc cải tạo rất cam go trong quá trình
tiến lên chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, mỗi vị áp dụng
đường hướng này theo thẩm quyền và cách thức riêng của
mình. Nói chung, cũng trong đường hướng «hòa nhập văn
hóa» này, Đức Tổng giám mục Saigon chọn cho giáo phận
mình một đường lối «thông cảm» với Nhà nước, đang khi
Đức Tổng giám mục Huế thì đòi hỏi Nhà nước phải biết
lắng nghe tiếng dân và tôn trọng quyền tự do của dân
hơn. Về phần Chính quyền Cách Mạng, dù có vung tay quá
trán trong việc chèn ép hàng giáo phẩm công giáo đó đây
(đặc biệt đối với Đức TGM Điền, các Dòng tu ở Thủ Đức
1978), họ cũng không thể không thừa nhận một thực thể
Giáo Hội CG muốn sống Phúc Âm giữa lòng dân tộc Việt
Nam, và, sau 5 năm dòm ngó và kiểm chứng, họ bị buộc
phải nhìn nhận thành phần lãnh đạo của GHCGVN là HĐGMVN
được thành lập trong phiên Đại Hội Giám Mục Toàn Quốc
1980. Để có được cái nhìn khách quan, tốt nhất là chúng
ta nên tuần tự duyệt lại từng chặng đường của GHCGVN qua
các Thư chung và Thông cáo của HĐGMVN.
3.3.1-- Thông cáo chung Hội Nghị Giám mục Miền Nam Việt
Nam 20.12.1975 [115] : lắng nghe, canh tân, phục vụ con
người, làm chứng cho Tin mừng.
Hai mươi mốt Giám mục Miền Nam (vắng ĐC Trần Văn Thiện
và TGM Nguyễn Văn Thuận; và vắng hai ĐC về hưu) đã họp
một tuần lễ từ ngày 15 đến ngày 20 tháng 12 năm1975 để
lắng nghe và tìm hiểu ý kiến của một số người tiêu biểu
trong các thành phần Dân Chúa và đại diện Chính quyền,
để rồi tìm cách canh tân Giáo hội theo đường lối Công
Đồng Vatican II, tức là chú mục ưu tiên vào chính việc
phục vụ con người phù hợp với tình hình mới.
Thông cáo viết: «Chúng ta hãy làm chứng cho mọi người
thấy Giáo hội của Chúa Kitô có sứ mạng và khả năng đi
vào các thực tại trần thế như men trong bột. Đồng bào sẽ
thấy ta sát cánh với họ trên con đường xây dựng quê
hương. Ta hãy cố gắng chứng tỏ Giáo hội tốt lành của
Phúc Âm qua đời sống tôn trọng chân lý và thực hiện công
bình bác ái: bác ái đòi chia sẻ cả vật chất tinh thần để
phát triển con người toàn diện. Bởi thế, người tín hữu
phải coi như là bổn phận và vinh dự được đem Niềm tin
của mình vào việc làm cho Nước giàu, Dân mạnh.»
Nhấn mạnh đến vai trò và sứ mạng của giáo dân đối với
trần thế để sống Mầu nhiệm Giáo hội, Thông cáo tiếp:
«Trong công việc này, chúng tôi đặc biệt tín nhiệm vào
anh chị em giáo dân. Anh chị em hãy học hỏi Giáo lý Phúc
Âm để góp phần vào việc huấn luyện con em ngay từ trong
gia đình trở thành công dân yêu Nước và giáo dân trung
thành với Giáo hội. Với ơn Chúa nhận được qua cầu nguyện
và bí tích, anh chị em sẽ theo gương Chúa Kitô trong mầu
nhiệm cứu thế can đảm vượt thắng mọi khó khăn trên con
đường phục vụ. Anh chị em hãy tích cực hợp tác với linh
mục, tu sĩ trong việc tổ chức đời sống đạo cho cộng đoàn
theo truyền thống của Giáo hội. Linh mục, tu sĩ không
mong gì hơn được giúp đỡ anh chị em hoàn thành các sứ
mạng trên.»
3.3.2-- Thư chung Hội nghị Giám mục Miền Nam VN
16.07.1976 [116]: Đức tin không phải là bờ thành ngăn
cách và cũng không phải là thuốc mê…
Kỳ họp Hội nghị Giám mục MNVN đầu tiên ngày
15-20.12.1975, các Giám mục coi đó là khóa họp «sơ bộ và
chuẩn bị cho một kỳ họp tới», nên chỉ đưa ra một «thông
cáo» vào cuối khóa họp để báo cáo tinh thần và phương
pháp làm việc của các giám mục và nhắc lại nhu cầu khẩn
thiết phải canh tân Giáo hội. Nhưng rồi phải chờ mãi đến
gần 1 năm sau mới có Hội nghị lần thứ hai, như ta sắp
bàn tới. Hội nghị Giám mục thứ hai sau ngày 30.04.1975
có một tầm quan trọng lớn là vì đã ban hành một Thư mục
vụ đề ra một đường lối mới để soi sáng cách sống đạo của
mọi tín hữu trong chế độ xã hội chủ nghĩa, nói cách khác
là đường lối để người công giáo sống chung với người
cộng sản…
Nói là mới, tức là mới nói một cách rõ ràng và phổ cập
đến người tín hữu thôi, chứ thực ra chẳng có gì mới đối
với hàng giáo phẩm và giới giáo dân hoạt động tông đồ
trong Giáo hội cả. Bởi vì ở mục «Người công giáo và chủ
nghĩa xã hội», Thư mục vụ đã đặt ra câu hỏi và giải đáp
một vấn đề đã cũ mèm có từ 1963, dưới thời Giáo Hoàng
Gioan XXIII, người đã có sáng kiến vĩ đại là triệu tập
Công Đồng Vatican II, một công đồng tràn ngập trong
luồng Khí mới của Thánh Thần Chúa. Thực vậy, Thư mục vụ
nêu vấn đề và giải đáp: «Chúng tôi vẫn biết rằng nhiều
anh chị em thắc mắc: làm sao chấp nhận chủ nghĩa xã hội
trên cơ sở duy vật vô thần? Đối với người công giáo,
thắc mắc đó rất hợp lý. Thật vậy, giữa Đức tin Kitô giáo
và chủ nghĩa Mác-Lênin có xung khắc về cơ bản, điều này
ai cũng nhìn nhận. Tuy nhiên, không vì thế mà không thể
có đối thoại và cộng tác chân thành giữa những ai cùng
phục vụ con người trong sứ mạng cá nhân và xã hội: ‘Vì
mọi người dù tin hay không tin, cũng đều phải trợ lực
cho việc xây dựng thế giới này được hợp lý, là nơi họ
đang sống’ (MV 21,6). »[117]
Thư mục vụ nhắc lại huấn dụ của Đức Gioan XXIII rằng
phải biết phân biệt ý thức hệ cộng sản khô cứng với con
người cộng sản đang tiến hóa trong cuộc sống, và cũng
phải nhìn nhận trong hành động của họ cũng có thể có
những điều hợp lý mà ta không được từ chối. Thư mục vụ
viết: «Trong Thông điệp Hòa Bình Thế Giới năm 1963, Đức
Gioan XXIII lưu ý chúng ta phân biệt những hệ thống
triết học với những trào lưu lịch sử phát sinh từ những
hệ thống đó. ‘bởi vì học thuyết một khi qui định thành
công thức thì không thay đổi được. Trái lại, những trào
lưu nhằm vào những điều kiện cụ thể và hay thay đổi của
đời sống thì không thể không bị ảnh hưởng rộng rãi của
sự biến đổi ấy. Ngoài ra, nếu các trào lưu trên có những
điều phù hợp với những nguyên lý lành mạnh của lý trí và
đáp ứng những nguyện vọng chính đáng của con người, thì
ai dám từ chối, không nhìn nhận những yếu tố tích cực và
đáng khen của chúng?’ (Thông điệp HBTG 159). » Nói tóm,
người công giáo có thể ghét hay căm thù ý thức hệ công
sản vô thần, nhưng không được ghét hay căm thù người
cộng sản bằng xương bằng thịt, vì họ là người như mọi
người và được mời gọi như mọi người làm người mỗi ngày
tốt hơn, và đang được Chúa yêu…
Với tư cách là những người kế vị các Tông Đồ có trách
nhiệm hướng dẫn Dân Chúa[118] trong sự hiệp thông và
dưới quyền lãnh đạo của Đức Giáo Hoàng, các Giám mục
Miền Nam nói với toàn thể anh chị em tín hữu mục đích
của Thư chung là trình bày «đường hướng mục vụ mà chúng
tôi thiết nghĩ là thích hợp cho Giáo hội trong hoàn cảnh
hiện tại, để giúp mọi thành phần Dân Chúa tích cực sống
đạo bằng cách dấn thân và phục vụ giữa lòng Dân tộc Việt
Nam hôm nay.» (NB: người viết nhấn mạnh). Mục đích cho
thấy đường hướng «sống Phúc Âm giữa lòng dân tộc» được
khai triển ngay sau đó. Phải, Thư chung nói đường hướng
này không mới, vì đó chính là «Phúc Âm của Chúa Giêsu
Kitô mà Công Đồng Vatican II đã giải thích cho thời đại
chúng ta» và, đối với Việt Nam, đó cũng chính là thời
buổi phải sống với chủ nghĩa xã hội. Nhưng để biết cách
sống thích hợp, Giáo hội cần đối thoại và được đối thoại
với Chính quyền Cách mạng…
Về dấn thân, «Đạo chúng ta là đạo cứu thế qua việc dấn
thân phục vụ. (…) Công Đồng Vatican II theo gương Chúa
Giêsu Kitô đã kêu gọi chúng ta đi vào thế giới ngày nay
với thái độ cởi mở, khiêm tốn, hiền hòa, sẵn sàng hợp
tác với mọi người thiện chí để mưu cầu hạnh phúc cho mọi
người (Xem MV 40-43).» [119]
Tiếp theo, Thư chung mời gọi dân Chúa phải hòa nhập vào
những thay đổi trong lòng dân tộc: «Cộng đồng Kitô hữu
Việt Nam, vì thế, không thể đứng ngoài những thay đổi
diễn ra trong lòng dân tộc. Như Giáo hội toàn cầu ở mọi
nơi, Giáo hội ở đây cũng ‘phải đồng tiến với xã hội loài
người và cùng nhau chia sẻ mọi số phận trần thế với đồng
bào’ (MV 40) ».
Điều kiện trước tiên là phải đối thoại để có thể thông
cảm với nhau và dĩ nhiên là được đối thoại với người
cộng sản đang nắm chính quyền: «Giáo hội ước mong được
đối thoại với hết mọi người. Giáo hội tin rằng đối thoại
là con đường tốt nhất để đi tới sự thông cảm nhau. Điều
này, Giáo hội hy vọng thực hiện được, vì tình yêu của
Chúa Kitô thúc bách các môn đệ Ngài đi đến với mọi
người, (…) và chính sách của Nhà Nước cũng đã được long
trọng tuyên bố nhiều lần là đoàn kết Dân tộc và tôn
trọng tự do Tôn giáo.»
Trong tinh thần dấn thân theo huấn dụ của Công Đồng
Vatican II là hòa nhập hết mình với dân tộc, «chúng tôi
kêu gọi anh chị em lấy lòng kính trọng và bác ái mà liên
kết với mọi người, phải nhớ mình là thành phần của cộng
đồng mình đang chung sống, theo gương ‘Chúa Kitô, Đấng
nhờ việc nhập thể, đã liên kết mình với những hoàn cảnh
nhất định về xã hội và văn hóa’ (TĐ 10).[120]
Về phục vụ, Mầu nhiệm Nhập thể là mầu nhiệm Thiên Chúa
làm người để phục vụ con người, chớ không để được hầu
hạ, hay luận phạt con người, và bằng cách đó mà thu phục
nhân tâm về với Chúa, để rồi từ đó Thiên Chúa ra tay
«cứu độ» con người. Thư chung viết: «Sự hiện diện của
chúng ta trong lòng dân tộc còn phải thể hiện mục đích
của Mầu Nhiệm Nhập Thể. Đức Kitô đã làm người là để cứu
độ chúng ta, (…) hiến mạng sống để cứu độ thế gian.
Không bị một tham vọng trần thế nào thúc đẩy, Giáo hội
cũng chỉ nhắm một điều là tiếp tục công cuộc của chính
Chúa Kitô, Đấng đã đến thế gian để làm chứng cho chân
lý, để cứu rỗi chứ không luận phạt, để phục vụ chứ không
để được hầu hạ (Xem MV 3).»
Trong chủ tâm phục vụ chứ không được hầu hạ, Thư chung
xác nhận chỉ có với «tình yêu vô vị lợi» như Chúa thương
yêu chúng ta, người công giáo mới có thể «hăng hái chu
toàn các nghĩa vụ của mình đối với Đất nước và xã hội,
(…) hoạt động và cộng tác với mọi người để tổ chức những
công việc kinh tế xã hội, cổ võ và nâng cao bất cứ điều
gì là chân thiện mỹ trong cộng đồng nhân loại.
Về việc sống giữa lòng dân tộc, Thư chung xác nhận không
có ‘khối công giáo’ như một thế lực chính trị, «vì trong
phạm vi chính trị, người công giáo là thành phần của
cộng đồng dân tộc, hoàn toàn hòa mình trong cuộc sống
của đồng bào, cùng chung nỗi vui mừng, niềm hy vọng và
mối âu lo của toàn dân. Vui mừng, vì Nước nhà đã hoàn
toàn độc lập và thống nhất; hy vọng là sẽ tiến tới một
nước Việt Nam giàu mạnh và hạnh phúc; âu lo, vì còn
những khó khăn phải khắc phục. Người công giáo kề vai
chung sức với mọi người để xây dựng Đất Nước, và làm
những gì lợi ích chung cho cộng đồng dân tộc mà không
nghịch với đức tin và lương tâm Kitô giáo.»
Về giá trị lao động, Thư chung xác nhận lao động để nuôi
chính mình và người thân, phục vụ đồng bào, «góp công
vào việc kiện toàn công cuộc sáng tạo của Thiên Chúa.
Hơn nữa, chúng tôi cho rằng nhờ việc làm của mình, con
người cộng tác vào chính công cuộc của Chúa Giêsu Kitô,
Đấng đã nâng giá trị của lao động khi người làm việc với
chính hai bàn tay của mình tại Nazareth (Xem MV 67).
Trong hoàn cảnh hiện tại, lao động sản xuất còn là chính
sách cần thiết để xây dựng một nền kinh tế tự túc, đảm
bảo nền độc lập, tự do của dân tộc.»
Về việc phụng vụ, Thư chung nhắc lại phụng vụ là nghi lễ
tôn thờ Thiên Chúa, hiến thánh vũ trụ và mọi sinh hoạt
của con người, trong đó có cuộc sống dấn thân phục vụ
của người tín hữu. «Phụng vụ là cao điểm của của sự gặp
gỡ giữa Thiên Chúa và con người. Trong sinh hoạt phụng
vụ, cộng đồng Dân Chúa xuất hiện một cách rõ rệt nhất,
và chính cộng đồng phụng vụ là khuôn mẫu của các xứ đạo
và Giáo hội địa phương….
Trong phần áp dụng, Thư chung nhắc nhở giáo dân rằng
«chính anh chị em, khi sống thánh thiện giữa đời, sẽ nối
tiếp Mầu Nhiệm Nhập Thể của Chúa Cứu Thế, và trình bày
cho mọi người thấy khuôn mặt thật của Giáo hội cũng là
gương mặt của Chúa Kitô.» Thư chung ngỏ lời với phụ nữ:
«Giáo hội tha thiết kêu gọi sự cống hiến quảng đại của
các chị em vào việc củng cố đời sống gia đình và họ đạo,
(…) giáo dục con em nên người công dân tốt, và huấn
luyện đức tin để chúng trở nên người công giáo trung
thành.» Thư chung ngỏ lời với bạn trẻ: «Là thành phần
tiên tiến trong nhân loại, các bạn phải là những người
đầu tiên can đảm bảo vệ và phát huy những giá trị nhân
bản và thiêng liêng. (…) Các bạn hãy tận dụng trí tuệ
tài năng và sức lực để cùng với đồng bào xây dựng một
cộng đồng dân tộc giàu mạnh và biết yêu thương. Nhưng
trên hết, là thành phần ưu tú của Dân Chúa, các bạn hãy
gắn bó với Chúa Giêsu Kitô.» Thư chung kêu gọi tu sĩ
«hãy ý thức cho đúng ơn gọi và sứ mạng đặc biệt của mình
là tận hiến và phục vụ, (…) làm chứng cho Phúc Âm Chúa
Kitô và trở nên dấu chỉ cho Nước Trời trước mặt Dân Chúa
và mọi người (Xem TL 44-45). »[121] Với linh mục, Thư
chung khuyên «hãy đem tinh thần hiền hòa khiêm tốn để
phục vụ Dân Chúa và mọi người, (…) chú tâm đặc biệt vào
Phụng vụ…Thánh lễ, (…) hiệp nhất với Giám mục, (…) giúp
tín hữu nhận ra ý Chúa quan phòng trong những biến cố
của đời sống.»
Trong phần kết luận, Thư chung nhắc lại: « Đức tin không
phải là bức tường ngăn cách người có tín ngưỡng và không
tin ngưỡng, cũng không phải là thuốc mê đưa người công
giáo xa rời thực tại trần gian .»
3.3.3-- HĐGMVN, cơ quan lãnh đạo GHCGVN, đã được thành
lập và chính thức gửi Thư mục vụ 01.05.1980 [122] xác
nhận tiếp tục đường hướng «hòa nhập văn hóa», dương cao
châm ngôn « sống Phúc Âm giữa lòng dân tộc» và đặt Chính
quyền Cách mạng trước thực thể một cộng đồng công giáo
quyết tâm sống Phúc Âm giữa lòng dân tộc VN.[123]
Ở đây, không cần nhắc lại nội dung «hòa nhập văn hóa»
trình bày trong Mục 1 ở trên, chúng tôi thấy chỉ cần bổ
túc thêm: Về mục «Hội thánh vì loài người», Thư mục vụ
viết: «Sứ mạng của Hội thánh không những là đem Phúc Âm
và ân sủng của Chúa Kitô đến cho nhân loại, mà còn đem
tinh thần Phúc Âm thấm nhuần và hoàn thiện những thực
tại trần thế (TĐ 5)[124] (…) Lời rao giảng Tin mừng và
các cử hành bí tích đem ân sủng của Thiên Chúa vào đời
sống con người, còn sinh hoạt trần thế của tín hữu đem
thực tại của con người đến với Thiên Chúa.»
Ở mục «gắn bó với dân tộc và đất nước», Thư mục vụ đề ra
hai nhiệm vụ cụ thể : « - Tích cực góp phần cùng đồng
bào cả nước bảo vệ và xây dựng Tổ quốc [125] (và) – Xây
dựng trong Hội thánh một nếp sống và một lối diễn tả Đức
Tin phù hợp hơn với truyền thống Dân tộc.» Cả hai nhiệm
vụ (mà cụ thể dễ hiểu là nhiệm vụ thứ hai) đều nhằm xây
dựng công cuộc hòa nhập văn hóa của Hội thánh.
Đối với nhiệm vụ thứ nhất, Thư mục vụ viết: «Lòng yêu
nước của chúng ta phải thiết thực, nghĩa là chúng ta
phải ý thức những vấn đề hiện tại của Quê hương, phải
hiểu biết đường lối, chính sách và pháp luật của Nhà
nước, và tích cực cùng đồng bào toàn quốc góp phần bảo
vệ và xây dựng một nước Việt Nam giàu mạnh, tự do và
hạnh phúc. Trong công cuộc phục vụ Quê hương, Phúc Âm
cho chúng ta ánh sáng và sức mạnh để khắc phục các khó
khăn và các xu hướng cá nhân ích kỷ, nêu cao tinh thần
phục vụ của bác ái phổ quát, hướng tới cảnh ‘Trời Mới
Đất Mới’ (Kh 21,1)[126], trong đó tất cả đều hòa hợp
hạnh phúc. Và khi phải phấn đấu xóa bỏ những điều tiêu
cực, chúng ta có ơn của Chúa Kitô phục sinh để mặc lấy
con người mới công chính và thánh thiện.» -- Không cách
nào người cộng sản có thể phủ nhận được tinh thần sống
Phúc Âm tích cực này. Sức sống Phúc Âm cứ thế mà làm men
làm muối cho đất cho nước của Việt Nam xã hội chủ
nghĩa…, mặc cho ai ăn ké hay lợi dụng.
Đối với nhiệm vụ thứ hai, các Giám mục nói «chúng tôi
muốn thực hiện điều Công Đồng Vatican II đã tuyên bố:
‘Những gì tốt đẹp trong tâm hồn và tư tưởng của loài
người hoặc trong nghi lễ và văn hóa riêng của các dân
tộc, hoạt động của Hội thánh không nhằm tiêu diệt, nhưng
làm cho lành mạnh, nâng cao và kiện toàn, hầu làm vinh
danh Thiên Chúa và mưu cầu hạnh phúc cho con người’ (TL
17, 1).[127] Muốn thế, một đàng chúng ta phải đào sâu
Thánh kinh và Thần học để nắm vững những điều cốt yếu
của Đức tin, đàng khác phải đào sâu nếp sống của từng
dân tộc trong nước, để khám phá ra những giá trị riêng
của mỗi dân tộc. Rồi từ đó, chúng ta tận dụng những cái
hay trong một kho tàng văn hóa mà xây dựng một nếp sống
và một lối diễn tả Đức tin phù hợp hơn với truyền thống
của mỗi dân tộc đang cùng chung sống trên Quê hương và
trong cộng đồng Hội thánh này.» -- Như vậy, có đạo binh
nào, có bạo lực cách mạng nào cản trở được sức thâm nhập
của chủ trương «hòa nhập văn hóa» này, khi mà sự hòa
nhập này chỉ nhằm xây dựng chớ không nhằm phá hoại?
Ngỏ lời với giáo dân, các Giám mục nói: «Chúng tôi xin
dựa vào Công Đồng (Vatican II) để nói với anh chị em
rằng: Ơn gọi của anh chị em là nên thánh giữa đời bằng
cách sống Phúc Âm của Chúa Kitô trong các phận sự trần
thế (TL 31 ; MV 43).[128] Nhờ anh chị em, Giáo hội hiện
diện ngay trong xã hội và góp phần xây dựng đời sống vật
chất và tinh thần của Dân tộc. Nghĩa vụ cao cả của anh
chị em là sống làm người tín hữu trung thành của Hội
thánh Chúa Kitô và làm người công dân tốt của Tổ quốc.»
-- Phải, hãy để cho người công giáo làm «người tín hữu
trung thành của Hội thánh Chúa Kitô» để được lại «người
công dân tốt của Tổ quốc»; đây không phải là mặc cả bán
chác, mà là quyền lợi tất yếu của mọi người, mọi bên
trong một cộng đồng dân tộc…
Ngỏ lời với tu sĩ, Thư mục vụ nhắc lại sứ mạng tận hiến
và phục vụ của tu sĩ vẫn phù hợp được với đường hướng
«sống Phúc Âm giữa lòng dân tộc»: «Dầu sinh hoạt bên
ngoài có thay đổi, sứ mạng đặc biệt của anh chị em vẫn
luôn luôn là ‘hiện thân của một Hội thánh muốn hiến mình
cho đường lối triệt để của các Mối Phúc Thật’, và anh
chị em ‘dùng chính cuộc sống của mình làm dấu chỉ cho
tinh thần sẵn sàng phục vụ Thiên Chúa, Giáo hội và anh
em đồng loại’ (LBTM 60; TL 44) [129] Chính anh chị em sẽ
tự thấy được rằng đường hướng mà chúng tôi vạch ra cho
cả Hội thánh ở Việt Nam : sống Phúc Âm giữa lòng Dân tộc
với tinh thần sẵn sàng phục vụ, phù hợp cách riêng với
ơn gọi của anh chị em. (…) Chúng tôi đặc biệt kêu mời
anh chị em hãy quan tâm (…) làm sao dung hòa giữa lao
động và cầu nguyện, giữa việc hòa mình vào các sinh hoạt
xã hội (…) và sự trung thành với đời sống cộng đoàn (tu
sĩ)…»
Ngỏ lời với các linh mục, Thư mục vụ nói: «Anh em hãy
làm cho Chúa Giêsu Kitô hiện diện thực sự giữa đoàn
chiên, khi anh em phục vụ các tín hữu cách tận tâm và
khiêm tốn (LM 15).[130] Nhất là, được nhìn nhận như là
người đại diện chính thức của Hội thánh tại địa phương,
anh em hãy trở nên hình ảnh của Chúa Cứu Thế, vị Mục tử
hiền lành và khiêm nhượng để cống hiến ơn cứu độ cho mọi
người. Xin anh em hãy cùng với chúng tôi đưa Hội thánh ở
Việt Nam đi vào con đường đã lựa chọn: là sống Phúc Âm
giữa lòng Dân tộc để phục vụ hạnh phúc của đồng bào.» --
Như vậy, người linh mục chính xứ là đầu tàu ở đơn vị cơ
sở của Giáo hội và Quê hương Đất nước, chính là xứ đạo,
thực hiện con đường sống Phúc Âm giữa lòng Dân tộc, mà
không một nhà nước cộng sản nào có thể cấm cản được cả…
Để kết luận, Thư mục vụ quả quyết: «Chúng ta có giáo lý
của Công Đồng Vatican II như luồng gió mát của Chúa
Thánh Thần thổi trong Hội thánh; chúng ta tự hào là công
dân của nước Việt Nam anh hùng độc lập thống nhất; và
trong đà phát triển chung của cả nước, chúng ta được
tình đồng bào thông cảm và giúp đỡ trong khối đại đoàn
kết dân tộc, nên chúng ta hãy hân hoan chu toàn sứ mạng
vinh quang của mình.» -- Người công giáo Việt Nam có
cùng một lúc cả Dân tộc và Thiên Chúa, nhờ trung thành
với những huấn dụ của Công Đồng Vatican II.
3.3.4-- Thư mục vụ «Về Năm Cứu Độ» tháng 5.1983 : sống
Phúc Âm giữa lòng dân tộc Việt Nam là thực hiện Mầu
nhiệm Cứu độ của Thiên Chúa đối với Dân tộc VN, là làm
sáng tỏ Đức Tin và lòng yêu nước của mình. (Ngoài ra,
như đâu hiểu ngầm rằng chuyện đất nước đã có Nhà nước
đảm nhiệm ?)
Trong khi xảy ra những vụ xung khắc ngày càng căng thẳng
giữa chính quyền Bình Trị Thiên với Đức Tổng giám mục
Nguyễn Kim Điền và việc Uỷ ban Vận Động sắp đi đến chỗ
thành lập một Uỷ Ban Đoàn Kết Công Giáo Yêu Nước Việt
Nam trên toàn quốc vào tháng 11, Hội đồng Giám mục Việt
Nam vẫn chủ trương tiến bước trên con đường thênh thang
rộng mở: yêu nước và yêu Chúa, yêu Giáo hội, yêu đồng
bào, yêu… chủ nghĩa xã hội, với một lòng tin tưởng sắt
đá là GHCGVN đi đúng với giáo huấn của Phúc Âm và tinh
thần Công Đồng Vatican II.
Với Thư mục vụ 1983 (có 29 chữ ký, trong đó có Đức TGM
Nguyễn Kim Điền), HĐGMVN mở đầu bằng lời ca ngợi tín hữu
sống đúng đường hướng và phương châm do các vị Chủ Chăn
đề ra, và xác nhận lại một lần nữa chủ trương đúng đắn
của Thư Chung 1980 là sống Phúc Âm giữa lòng dân tộc :
«Đi đôi với cuộc sống đạo đức ấy, anh chị em đã góp phần
xứng đáng với đồng bào cả nước xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam yêu quí. (…) Chúng tôi mong anh chị em đọc
lại Thư Chung năm 1980 của hàng Giám Mục Việt Nam. Bức
Thư đó đã đem lại cho chúng ta một niềm tin phấn khởi và
giúp chúng ta đạt được nhiều thành tích tốt đẹp cả về
hai mặt đạo đời. Chúng ta vẫn tiếp tục tiến bước trên
‘Con đường đã lựa chọn là sống Phúc Âm giữa lòng dân
tộc; để phục vụ hạnh phúc của đồng bào, góp phần bảo vệ
hòa bình và sự sống trên trái đất’. (…) Mọi người thấy
rõ đường hướng mục vụ của chúng tôi, dựa trên Giáo lý
của Hội Thánh, của Công Đồng Vatican II. Vậy, thi hành
Bức Thư Chung năm 1980 chúng ta sẽ làm sáng tỏ Đức Tin
và lòng yêu nước của mình.» -- Nói cách khác, GHCGVN đã
có sự lãnh đạo chính thức và sáng suốt trong đường hướng
yêu Chúa và yêu nước, bà con công giáo cứ yên tâm giữ sự
đoàn kết và hiệp thông với Giáo Hội và Tòa Thánh…
Thư mục vụ loan báo một tin mừng làm nức lòng Dân Chúa
là Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II mở Năm Thánh Cứu Độ
(25.03.1983-22.04.1984) «dạy chúng ta sống đầy đủ Mầu
nhiệm Cứu độ: Thiên Chúa đến với Con Người để Con Người
đến với Thiên Chúa và đến với nhau.» Điều đó chỉ được
thực hiện nhờ Đấng Cứu Thế và Mẹ Người. «Năm Thánh chúng
ta phải trở về với Thiên Chúa, làm hòa với anh chị em
mình, nhất là xây dựng gia đình sống hòa hợp thánh
thiện, làm chứng cho Phúc Âm giữa cuộc đời. Chúng ta
cũng phải sám hối tội lỗi, đổi mới cuộc sống»…
Thư mục vụ 1983 chỉ vắn tắt trong hai trang giấy. Vâng,
chỉ có thế! Ở phía Nam, các trận đánh tư sản mại bản và
cải tạo công thương nghiệp cũng như đợt đổi tiền lần đầu
đã san bằng nền kinh tế tư bản thô sơ hồi trước 1975.
Thay vào đó, hầu hết công trình sản xuất nông nghiệp tập
thể ở các tỉnh phía Nam đều đạt mức sản xuất thấp và bị
lỗ lã nặng. Dân chúng xếp hàng cả ngày ở các hợp tác xã,
để được mua khoai sắn và bobo ăn độn với gạo mốc suốt
năm tháng. Các khu kinh tế mới (nông trường tập thể) đều
bị phá sản, đói meo đói móc, nhiều người dân đổ về thành
phố sống đời lang bang lất bất của kẻ vô gia cư, vô nghề
nghiệp, vô hộ khẩu từ những năm 1978, 79 đến lúc bấy
giờ. Các hợp tác xã khắp nơi kéo lê ì ạch hoạt động, nếu
không nói là đã chết đứng. Các tổ hợp sản xuất nhỏ, các
xí nghiệp hợp doanh, quốc doanh đều lúc nào cũng đạt chỉ
tiêu hoặc vượt mức chỉ tiêu sản xuất, nhưng cũng không
đủ cung ứng cho nhu cầu tiêu dùng thô sơ nhất của 70
triệu con dân. Trong các trại học tập cải tạo, vẫn còn
hằng chục ngàn ngụy quân ngụy quyền (trong đó vẫn còn
một số cựu tuyên úy quân đội) chưa thuộc bài bản nên
phải tiếp tục đi lao động khổ sai. Phong trào vượt biển
đã vượt qua mức cao độ năm 1979-80, để rồi vẫn lai rai
đẩy bà con ra đi phiêu lưu trên biển cả. Tính ra phải có
đến 2 triệu người «đi chui» rồi, đang khi dân gian vẫn
bảo nhau ‘cột đèn mà có chân thì cũng ra đi thôi’…
Tất cả những chuyện thường ngày ở huyện như thế đều trở
thành cấm kỵ, hoặc không ai còn sức nói nhỏ với nhau
nữa. Hoặc quen rồi với chỉ thị dân không được lo, đã có
Nhà nước lo. Dĩ nhiên, tôn giáo cũng chẳng còn hơi sức
đâu mà lo chuyện bao đồng, mà có lo cũng chẳng đi tới
đâu…! Trong Giáo hội Công giáo, tất cả những cố gắng
hiểu tốt, nói tốt và quan hệ tốt, cũng như đối thoại với
Chính quyền đều hầu như đến chỗ bão hòa, nếu không nói
là tê liệt trước sức cố chấp, tự mãn, độc tôn của Nhà
nước và sự độc tài toàn trị của một đảng cộng sản Mác-Lê
Việt Nam bách chiến bách thắng và đã trở thành đỉnh cao
của trí tuệ loài người…Uỷ ban Đoàn kết Công giáo Yêu
nước Việt Nam (trên toàn quốc, và các phân bộ trên các
tỉnh thành) đang mưu đồ gì đây, nếu không phải là trở
thành công cụ răn đe hoặc xâm nhập của Đảng CSVN bên
trong hàng ngũ công giáo, theo sự hiểu biết của người
tín hữu lúc bấy giờ? Bằng cách nào HĐGMVN và các Giám
mục sở tại hóa giải được sức ép và sự đột nhập đáng ngại
này? Hoàn toàn không có một chỉ đạo chính thức nào, mọi
người đều hiểu ngầm rằng HĐGMVN phó mặc cho sức sáng tạo
«vô chiêu» của Thần Khí Chúa. «Lịch sử luôn pha lẫn ánh
sáng và bóng tối, cũng như đời sống những người con của
Chúa vẫn có cả ân sủng và tội lỗi.» (Thư mục vụ 1980).
Do đó, cũng chẳng lạ gì trong Thư mục vụ 1983 không thấy
đá động gì đến cuộc sống thực tế đầy nguy khốn của bà
con công giáo và sự hướng dẫn ủi an họ trong những lúc
đói rách và đau khổ tuyệt vọng. Chắc hẳn đã có linh mục
chính xứ nai lưng ra lãnh đủ rồi! Dĩ nhiên, Thư mục vụ
càng không dám khuyến khích bà con công giáo ra sức góp
ý với Nhà nước giải quyết những khó khăn của đất nước
nói trên! Sống Phúc Âm giữa lòng Dân tộc, mà đang khi
Dân tộc lâm nguy, người tín hữu cũng cứ giữ thái độ…
«trông chờ» vào Nhà nước mãi thôi sao? Khách quan nhìn
vào Thư mục vụ, người ta cũng có thể đoán được trong nội
bộ hàng giáo phẩm cao cấp có cái gì như nhẫn nại cam
chịu trước một sức ủi của xe máy húc khổng lồ vô tri vô
giác và không có gì cản nổi cả… Mỗi giáo phận được tự do
ứng dụng đường hướng mục vụ trong phạm vi thẩm quyền của
mình, miễn sao tránh va chạm gây thêm phiền toái…vô ích.
3.3.5-- Từ Thông cáo 1986 của HĐGMVN trở đi, các Thư
luân lưu hay Thông cáo thường không có nội dung gì mới.
Chỉ nhấn mạnh thêm về sự cần thiết phải hòa giải và hoà
hợp dân tộc. Có mới chăng là dám nói thẳng hơn về các
khó khăn cần giải quyết, và đòi được nhìn nhận như một
thực thể để có thể đóng góp hữu hiệu hơn. Từ năm 1992,
đã có cái nhìn mới về cách đồng hành với dân tộc. Từ
1991 trở đi, có gặp gỡ trao đổi với Chính Phủ, nhưng
thường vẫn giữ cẩn mật nội dung.
Thông cáo 1986 thông báo những «tham gia sinh hoạt đặc
biệt» của HĐGMVN với Hội thánh toàn cầu (có được sự nới
rộng, nhờ sự giúp đỡ của Nhà nước), nhắc nhở tín hữu
«tiếp tục sống tinh thần sám hối hòa giải đã có trong
Năm Thánh Cứu Độ, nhất là tinh thần hòa giải phải được
thực hiện không những giữa các người Kitô với nhau mà
còn giữa những người khác quan điểm trong các môi trường
xã hội». Thông báo này có ám chỉ gì chăng về hiện trạng
một Tổng giám mục Huế Nguyễn Kim Điền, đã bị công an kêu
đi «làm việc» suốt 120 ngày từ 05.04.1984 chỉ vì đã
nhiều lần dám đối thoại cởi mở, tin cậy và công khai về
vấn đề tự do tín ngưỡng với nhà cầm quyền, rồi từ năm ấy
trở đi bị theo dõi nghiệt ngã và quản thúc trong thành
phố, đang khi chính Ngài vẫn trước sau như một coi
«người cộng sản Việt Nam là người anh em của tôi » từ
lúc trả lời một nhà báo Ý năm 1967 cho đến mãi về sau
này.
Thông cáo 1986 vẫn nhất mực nhắc lại: «Hãy sống gắn bó
với Hội Thánh là mẹ thông qua Đức Giáo Hoàng, các Giám
mục nhất là các giám mục bản quyền Địa phận, sống đoàn
kết yêu thương nhau để nên như dấu chỉ của người theo
Đạo Chúa Kitô». Vả lại, người công giáo còn phải ra sức
đóng góp nhiều hơn nữa trong nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc vì «chúng ta vừa là người công giáo, vừa là
người công dân của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt
Nam, hai phẩm tính đó không hề mâu thuẫn nhau. (…) Chúng
ta hãy xin ơn Chúa Thánh Thần soi sáng hướng dẫn để có
thể hành động phù hợp với Luật Chúa, Luật Giáo Hội và
cũng phù hợp với Luật của Nhà nước… » -- Đấy, mọi sự đều
phú mặc cho sức tác động «vô chiêu» của Chúa Thánh Thần.
Thư mục vụ 1989 thông báo «hiện nay, 4 Đại Chủng Viện:
Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Vinh Thanh và Cần Thơ đã
được mở, hai Đại Chủng Viện Huế và Nha Trang hy vọng sẽ
được khai giảng trong tương lai gần. Số chủng sinh theo
yêu cầu cụ thể hy vọng sẽ được tăng thêm và được tuyển
lựa thường kỳ hơn.» -- Tất cả đều đặt vào niềm hy vọng
nơi Đảng và hiểu ngầm là vào Đức Hy Vọng nơi Chúa Thánh
Thần.
Thư mục vụ lập lại đòi hỏi phải giữ sự hiệp thông và
trung thành với Giáo Hội La Mã cũng như sự đoàn kết hiệp
thông với nhau (mà không nói rõ HĐGMVN đã nhất trí với
Tòa Thánh về vụ phong thánh 117 vị Tử Đạo tại Việt Nam
được cử hành long trọng tại Đền Thánh Phêrô năm 1988 bất
chấp sự phản đối rầm rộ của Nhà nước VN; cũng không có
lấy một lời về đời sống thánh thiện, dũng cảm và cái
chết của Đức TGM Nguyễn Kim Điền vào ngày 08.06.1988):
«Công Đồng chung Vatican II đã dạy rằng: Giáo Hội là Bí
Tích, nghĩa là dấu chỉ và là dụng cụ của sự kết hợp mật
thiết với Thiên Chúa và của sự liên kết với toàn thể
nhân loại (MV 1). Giáo Hội là mầu nhiệm hiệp thông, hiệp
thông của người tín hữu với Chúa Kitô và trong Ngài hiệp
thông với nhau. Vì thế không thể có Giáo Hội đích thực,
cũng không thể giúp thế gian nhận ra Chúa Kitô do Chúa
Cha sai (Gio 1, 23) nếu không có hiệp nhất thật sự giữa
các thành phần Dân Chúa. Chúng tôi tha thiết kêu gọi anh
chị em tiếp tục sống đoàn kết và thương yêu nhau, tránh
mọi hình thức chia rẽ, thiếu bác ái. Hãy yêu thương nhau
như Chúa Kitô yêu thương chúng ta (Gio 13, 34).»
Lá thư hướng dẫn tiếp về nếp sống phục vụ phải có của
người công giáo: «Hãy cộng tác với nhau để loại trừ
những mặt tiêu cực và những tệ nạn xã hội, chăm sóc bảo
vệ và giáo dục thiếu nhi, xây dựng nếp sống lành mạnh và
văn minh trong việc cưới xin, tang chế và những việc
khác tương tự, tham gia những công trình phúc lợi, xây
dựng công ích, phục vụ những người nghèo khó, bất hạnh,
kiến tạo một xã hội công bằng, yêu thương và hạnh phúc,
nhất là phát huy một nếp sống lành mạnh theo tinh thần
Phúc Âm và truyền thống dân tộc. (…) Hãy sống cách
nghiêm túc và trọn vẹn đức tin của mình, nghĩa là sống
phù hợp với giáo lý của Chúa trong lời nói, cách suy
nghĩ, hành vi, nếp sống và con người của anh chị em.»
v.v….
Thư mục vụ 1991 loan báo HĐGMVN đã đi «hành hương Roma,
viếng mộ các Tông Đồ và hội kiến với Đức Giáo Hoàng
(GP2) theo quy định của Giáo hội». Thư mục vụ 1991 trích
lời huấn dụ của Đức Thánh Cha khuyến khích thực hiện
đường hướng mục vụ của Thư chung 1980, và tóm đại ý của
Đức Gioan Phaolô II rằng «để thực hiện nhiệm vụ đó cách
hữu hiệu hơn, Giáo hội cần được nhìn nhận như một thực
thể vì con người và cho hạnh phúc của con người ( người
viết ghi đậm), mục tiêu mà mọi chế độ chân chính đều
theo đuổi. Nhắc lại giáo huấn của Công Đồng Vatican II,
Đức Thánh Cha nói: ‘Giáo hội không xin đặc ân nào, mà
chỉ xin để mình dược tự do phục vụ xứ sở với tất cả khả
năng của mình’». Thư mục vụ viết: «Đức Thánh Cha tha
thiết kêu gọi sự canh tân và hòa giải giữa các thành
phần trong Giáo hội và dân tộc. Ngài nói: (…) ‘Đừng để
lại một sự cay đắng nào giữa anh em cùng một dân tộc’.
Hòa giải là con đường tất yếu để xây dựng và bảo vệ Tổ
Quốc và Giáo Hội.» Cuối cùng, Thư mục vụ xác nhận lòng
ưu ái đặc biệt của Đức Thánh Cha dành cho Giáo hội và
nhân dân Việt Nam, mà «bằng chứng cụ thể là Ngài gởi
phái đoàn Tòa Thánh do Đức Hồng Y Roger Etchegaray sang
Việt Nam, để thảo luận với nhà chức trách (…) về một số
vấn đề quan trọng mà Giáo hội Việt Nam đang phải đối
phó.»
Thư mục vụ 1992 lần đầu tiên nói về những «băn khoăn khi
nhìn vào hiện tình xã hội và Hội thánh», sau khi ca ngợi
«cuộc đổi mới tư duy và đổi mới kinh tế mấy năm nay».
Lần đầu tiên, Thư mục vụ đã nói đến gia đình với việc
cần kế hoạch hóa sinh đẻ theo phương pháp tự nhiên, nạn
phá thai, ly dị; đến giới trẻ đang bị cuốn hút bởi quan
niệm sống thực dụng và khuynh hướng hưởng thụ, nghiện
rượu và ma túy; đến nạn mãi dâm và nhiều tệ nạn xã hội
khác; đến việc xuống cấp nghiêm trọng của nền giáo dục
học đường ; đến sự cần tham gia các việc từ thiện, xóa
đói giảm nghèo; đến việc tín hữu ở các vùng kinh tế mới
và các miền núi chưa nhận được sự giúp đỡ cần thiết về
đời sống tôn giáo; đến sự kiện «tại vài địa phương vẫn
còn một sự kỳ thị nào đó đối với các tín hữu, do việc
tùy tiện giải thích và áp dụng các quy định về sinh hoạt
tôn giáo» ( người viết ghi đậm).
Thư mục vụ 1992 nhắc lại Giáo hội VN cần «nỗ lực đem
Phúc Âm vào trong văn hóa», «xây dựng một nếp sống và
một lối diễn tả Đức Tin có bản sắc dân tộc hơn», và nhấn
mạnh đến sứ mạng «đồng hành với dân tộc», «làm men, làm
muối, làm ánh sáng cho thế gian», «không tách lìa đời
sống tôn giáo ra khỏi đời sống xã hội và trần thế». Thư
mục vụ kết thúc với cách suy nghĩ mới về «tinh thần đồng
hành của Hội Thánh», rằng «khi dấn thân trong công cuộc
xây dựng xã hội trần thế, Hội thánh không tự phụ về
quyền lực, cũng không tìm kiếm quyền lực. Tinh thần đồng
hành của chúng ta là tinh thần nhập thể của Chúa Giêsu
Kitô. (…) Chúa đã phục vụ bằng một tình yêu vừa mạnh mẽ
vừa dịu dàng: Chúa tự đồng hóa với những người nhỏ bé,
yếu đuối, nhưng Chúa cũng không khoan nhượng với bất
công, bóc lột và bất bình đẳng; Chúa đã dùng lời nói và
hành động để tố cáo những tội ác chà đạp con người và
xúc phạm đến Thiên Chúa. Chỉ bằng con đường phục vụ như
thế, chúng ta mới có thể tuyên bố rằng Đức Kitô là câu
trả lời cho mọi ước vọng của loài người.» (người viết đã
ghi đậm nhiều chỗ). -- Đây là khía cạnh mới của đường
hướng «hòa nhập văn hóa» và cách thế «sống Phúc Âm giữa
lòng dân tộc».
Thông cáo 1995 nhìn nhận HĐGMVN «đã có nhiều thiếu sót
khiến bộ mặt của Hội Thánh trên Đất Nước chúng ta chưa
phản ảnh đầy đủ dung mạo thánh thiện và phong phú của
Đức Kitô», và thông báo «đã xin gặp Thủ Tướng Chính Phủ
để kính chào và trình bày với Thủ Tướng một số vấn đề
liên quan đến sinh hoạt của các Giáo phận. (Người viết
nhấn mạnh) (…) Thủ Tướng hứa sẽ cho nghiên cứu và đáp
ứng sớm những điều gì phù hợp với Hiến Pháp và Pháp luật
Nhà Nước». (Ký tên Gm Phaolô Nguyễn Minh Nhật, Chủ tịch
HĐGNVN, và Gm Emmanuel Lê Phong Thuận, TTKý). Người công
giáo đâu có cần những lời hứa tới hứa lui, nghe qua rồi
bỏ này! Còn việc Đức Giám mục Phan Thiết Huỳnh Văn Nghi
được Tòa Thánh bổ nhiệm làm Giám quản Tông tòa tại giáo
phận Sàigòn đang khi ĐC Bình bệnh nặng, và bị Nhà nước
phủ nhận, kiểm soát, ức chế đủ điều cũng không hề được
HĐGMVN nói đến bất kỳ dưới hình thức nào!
Từ năm 1995 trở đi, tức là từ cuối nhiệm kỳ chủ tịch
HĐGMVN (1991-1995) của Đức Giám mục Xuân Lộc Nguyễn Minh
Nhật là vị năm 1991 và năm 1992 đã cùng với HĐGMVN kiến
nghị với Chính quyền, phê bình thẳng về những hạn chế
quyền tự do tôn giáo, từ đó, thỉnh thoảng HĐGMVN vẫn có
những quan hệ khá thẳng thắn với phía Chính phủ để góp ý
nhẹ nhàng về một vài điểm liên quan đến tự do tôn giáo
và tự do nói chung. Đã có nhiều bài viết trong sách này
nói nhiều về các vấn đề này… Vả lại, cũng còn rất nhiều
điều lỉnh kỉnh mà không ai màng nói ra vì đã quá rõ
ràng, chẳng hạn như chuyện học triết thuyết Mác-Lê ở
chủng viện, một môn mà «thầy không muốn dạy, trò không
muốn học» mà Gs Lý Chánh Trung đã nói đối với các trường
ngoài đời rồi.[131]
4-- THỬ ĐÁNH GIÁ VÀ PHÊ PHÁN SỰ ĐÓNG GÓP CỦA
HGPCGVN CHO CÁC VẤN ĐỀ NHƯ HÒA BÌNH, HÒA GIẢI,
HOÀ HỢP DÂN TÔC, HÒA NHẬP VĂN HÓA, DẤN THÂN
«SỐNG PHÚC ÂM GIỮA LÒNG DÂN TỘC» TRONG 30 NĂM
QUA…
Đánh giá hay phê phán công việc của HGPCGVN trong giai
đoạn 30 năm hướng dẫn Hội Thánh Chúa sống Phúc Âm giữa
lòng dân tộc trong một hoàn cảnh tréo cẳng ngỗng như
hoàn cảnh của Việt Nam? Nếu đó không phải là chuyện đội
đá vá trời, thì cũng phải nói là một chuyện thật vô
duyên; hơn nữa, là tự phụ và xấc láo, hiểu theo tình tự
người Việt. Ai có đủ thầm quyền để làm việc này? Tòa
Thánh thì vẫn một lòng sát cánh với Giáo Hội VN.
Ngoài những Thư Chung và Thông Cáo của HGPCGVN, ta không
có thêm một tài liệu nào khác bên trong các Tòa TGM hay
GM để có thể dùng được cho việc đánh giá. Hơn nữa, cho
đến nay, không ai trong chúng ta có được những thư
riêng, nhật ký hay hồi ký (nếu có, và có lẽ không hề có)
của một vị giám mục nào để có thể hiểu thêm một chút gì
bên trong những quyết định của các Ngài về những sinh
hoạt của HĐGMVN nói chung cũng như của các giáo phận nói
riêng. Ngoài ra, tác phong làm việc cẩn mật của HGPCGVN
là một thông lệ, tuy các Tòa GM ở MNVN thường mở rộng
cửa để các tín hữu đến tiếp xúc dễ dàng với Chủ Chăn của
mình. Điều này, sau 30.04.1975, cửa có thể mở rộng hơn
để nói rằng nơi đây không có gì “dấu giếm” cả, nhưng sự
giao tiếp giữa Chủ Chăn và con chiên không còn được cởi
mở tấm lòng như trước nữa, không phải vì tình nghĩa Cha
con trở nên lạnh nhạt, mà vì sợ tai vách mạch rừng! Như
vậy, nếu chỉ dùng các văn kiện chính thức của HGPCGVN để
đánh giá, bình phẩm, phê phán, e có gì không được chỉnh.
Vì ngoài những ý nghĩa nội hàm của ngôn ngữ, còn có cả
một mớ ý nghĩa “ngoại hàm” chỉ có thể được soi sáng bởi
những bối cảnh chung quanh, đang khi đó từ ngoài ta
không biết rõ hết những bối cảnh đó gồm những gì. Chắc
chắn, người trong nước cũng như người ngoài nước đều
bình đẳng với nhau trong vấn đề này.
Vả lại, nói ra thì có người buồn, nhưng không nói ra thì
thấy tủi cho ngòi bút này đã từng chảy nước mắt trên
trang giấy viết, nên cũng đành đoạn xin phép nói thẳng
ra ít lời. Tội nghiệp, trong nước, mọi người đều có thể
thừa thắng xông lên, nhất là những người công giáo cấp
tiến yêu nước yêu Giáo Hội, để phê phán xỏ xiên vô tội
vạ đủ điều HGPCGVN, trong lúc những vị này không có cách
nào để phân bua lấy được một lời. Đang khi ấy, mỗi vị
Chủ Chăn thường xuyên bị công an, mật vụ đủ cỡ đủ loại
bám sát, theo dõi, bao vây, hạch sách để có chứng liệu
“làm việc”. Ngoài nước, có người phóng về các Tòa GM,
ngoài tin tức ra, nào là thư không niêm (tâm thư, kháng
thư, v.v.), nào là thư phỏng vấn, chất vấn và thách thức
trả lời để có chứng liệu làm việc, viết lách, hoặc đánh
giá, phê phán. Không ai xa lạ cả, mà chính là con chiên
bổn đạo, những người đầy thiện tâm thiện chí, được biết
là ngoan đạo, đạo đức, có hoạt động tông đồ, đầy tín
nhiệm, có viết lách nhiều và đã quen làm việc thật khoa
học theo kiểu Tây kiểu Mỹ, nghĩa là soi sáng bằng kính
hiển vi trên bất kỳ một kẽ hở nào trong các văn kiện
chính thức của HGPCGVN, hoặc tin tức, tin đồn, bài vỡ ít
ỏi đến trên mạng từ bên nhà hay được báo chí ngoài nước
khai thác, để suy nghĩ, viết lách, dĩ nhiên là theo quan
điểm và lập trường chính trị của mình.
Chính vì đó, trong 30 năm qua, HGPCGVN hở miệng cũng mắc
quai, mà không hở miệng cũng mắc quai. Cuối cùng, khi
cần đánh giá lại trên 30 năm chung sống hòa bình của
HGPCGVN với người cộng sản, một đàng thì không có gì
khác hơn những văn kiện rất ư là chính thức của bên
không có quyền ăn nói là HGPCGVN, và đàng kia thì có một
đống cao ngất ngưởng những bài viết xả láng của bên có
quyền ăn nói. Ai còn chút tự trọng với ngòi bút của mình
thật ra không biết dựa vào đâu để làm một việc gọi là
tạm đánh giá cho nghiêm túc được.
Nói cho cùng, tôn giáo không phải là chỗ để tranh biện,
lại càng không phải là chỗ để bút chiến. Các phần 1, 2
và 3 trên đây chỉ làm công việc trình bày một đường
hướng, một nỗ lực hành động, được chính thức thông báo.
Trình bày cũng chỉ để góp phần suy nghĩ, hiệp thông, chớ
cũng không phải để ăn thua… Phải, tôn giáo cũng không
phải là chỗ để ăn thua. Ăn thua về cái gì? Ăn thua với
ai?
Qua các phần nói trên, người viết cố gắng trình bày
khách quan những nhận định của mình trên một số văn bản
chọn lọc và điểm thêm vài nét chấm phá nhận xét, cốt nêu
lên những thắc mắc để suy nghĩ hơn là hàm ý đánh giá hay
phê phán. Giờ đây, nếu phải vung tay quá trán để làm một
chuyện dại dột như đánh giá hay phê phán, thì thật ra
cũng chỉ là một cách đặt ra những đánh giá hay phê phán
như những vấn đề cùng nhau suy nghĩ, chớ không thể coi
đó là sự đánh giá hay phê phán theo nghĩa thông thường
được. Hãy cứ coi như những gì nói dưới đây là một thứ
“lạm quyền”, ở cấp một là “lạm trình” vấn đề, và ở cấp 2
là “lạm bàn” vào vấn đề vậy.
4.1-- GHCGVN vẫn là Giáo Hội của Chúa Kitô ?
Nhiều người công giáo ngoài nước, kể cả một vài linh
mục, lo sợ rằng Giáo Hội Việt Nam không còn là Giáo Hội
của Chúa Kitô nữa. Họ nghĩ rằng dưới chế độ XHCN hiện
nay, một chế độ phi nhân bản, phản dân tộc, vô pháp
luật, phi tôn giáo (để không nói là bách hại tôn giáo có
bài bản rất siêu đẳng) và cực kỳ vô lương kéo dài 30 năm
thống trị trên đất nước với Điều 4 Hiến pháp, Nghị Định
31/CP, v.v. và mới nhất là Pháp Lệnh Tôn giáo và Nghị
định về tôn giáo mỗi ngày một siết chặt hơn cái gọi là
tự do tôn giáo vào gọng kềm của những quyết định tùy
tiện của chính quyền, nhất là chính quyền địa phương xã
huyện, thì làm sao có được một Giáo Hội theo đúng nghĩa
nữa.
Hơn nữa, chính quyền chọn người vào Đại Chủng Viện, áp
đặt dạy môn triết học Mác-Lê trong chương trình giáo dục
của Đại Chủng Viện, chọn người được làm linh mục, v.v.
thì lấy gì bảo đảm cho rằng con chiên bổn đạo được hướng
dẫn đúng với giáo lý của Giáo Hội. Đã vậy, cũng chính
quyền dành quyền quyết định chọn các giám mục, và áp
dụng chế độ xin-cho tùy tiện trên mọi mặt sinh hoạt của
Giáo Hội, thì lấy gì bảo đảm là chính hàng giáo phẩm
lãnh đạo Giáo Hội đây… Như vậy, thực tế thì Giáo hội chỉ
còn cái võ, mà đã đánh mất linh hồn của mình rồi chăng!?
Không chắc, xin hỏi ngược lại rằng các giáo hội công
giáo ở các nước cựu cộng sản Liên Xô và Đông Âu đã từng
sống dưới chế độ cộng sản lâu hơn Việt Nam (từ 40 năm
trở lên) đã đánh mất linh hồn mình rồi chăng?
Các văn kiện chính thức của GHCGVN chứng minh một điều
thật đơn giản: Giáo Hội Công Giáo tại Việt Nam vẫn tồn
tại và ngày càng tỏ ra sống hòa hợp tốt hơn vào lòng dân
tộc. Dĩ nhiên các văn kiện này chỉ cho thấy một mặt của
Giáo Hội là mặt cơ chế điều hành, và thiếu hẳn mặt quan
trọng hơn là đời sống dấn thân của Dân Chúa trong trần
thế. Tuy nhiên, bất chấp là thuộc xu hướng chính trị hay
thần học nào, người ta ít ra cũng có được một cơ sở
khách quan về mặt lãnh đạo của Giáo Hội để suy nghĩ…
Người viết cố tình đi theo từng bước thời gian, phân
tích từng văn kiện một[132], cho dù có nhiều nơi trùng
lập những huấn dụ, những xác quyết đã có từ trước. Nên
nhớ, các văn kiện của Tòa Thánh và của các Giám mục
thường có sự trùng lập, mà là trùng lập cố tình, để xác
nhận rằng lời giáo huấn của các Ngài không đến từ ý
riêng, mà đến từ Phúc Âm của Chúa và từ những văn kiện
giáo huấn chính thức của Giáo Hội là một CỘNG ĐỒNG DÂN
CHÚA. Đó là dấu chỉ rõ ràng nhất Hội Thánh Chúa (từ Tòa
Thánh đến Việt Nam, chẳng hạn) là một Bí tích Hiệp thông
do quyền năng của Thần Khí Chúa vậy. Tóm lại, các văn
kiện của HGPCGVN xác nhận rằng Giáo Hội Công Giáo Việt
Nam vẫn là Giáo Hội của Chúa Kitô.
Hơn nữa, các văn kiện này cho thấy các Giám mục VN là
những Đấng Bản Quyền chính danh và đích thực, hợp nhất
với Đức Thánh Cha là Đấng kế vị Thánh Phêrô. Ở đây, ta
cần nhắc lại tóm lược rằng quyền giáo huấn của Giáo Hội
Hoàn Vũ ở tại nơi Đức Thánh Cha và Các Công Đồng Chung –
như Công Đồng Vatican II-- , (và các Hội nghị Giám mục
Thế giới, Vùng Miền, thông qua Đức Giáo Hoàng), và quyền
giáo huấn tại các Giáo hội địa phương ở tại nơi Hội Đồng
Giám Mục quốc gia và các Giám mục sở tại, với điều kiện
là các Ngài giữ được sự hiệp thông với Đấng kế vị Thánh
Phêrô. Sự hiệp thông này được biểu hiện qua việc kính
viếng mộ hai Thánh Tông Đồ tại La Mã 5 năm 1 lần (ad
limina) và việc điều hành Giáo Hội địa phương trong sự
tuân phục quyền bính của Đức Giáo Hoàng. Các lời huấn dụ
của các Giám mục thường được chính thức lưu hành dưới
dạng các Thư Chung, Thư mục vụ (mà từ đó có tên là Thư
luân lưu) được đọc trong các nhà thờ vào ngày chủ nhật.
Những điều kiện này có đủ đối với GHCGVN dưới chế độ
hiện hành. Cũng xin nhắc lại rằng HĐGMVN được thành lập
năm 1980 là một thắng lợi lớn cho GHCGVN, để bảo đảm
rằng, về mặt cơ chế trong một quốc gia (theo tinh thần
Công Đồng Vatican II), GHCGVN là một giáo hội thống nhất
về lãnh đạo và về đường lối giáo huấn. Nếu nay mai chính
quyền Hà Nội có đặt quan hệ ngoại giao với Tòa Thánh, và
có một Tòa Khâm sứ đặt tại Việt Nam, thì điều đó tỏ dấu
Giáo Hội La Mã, thông qua gương mặt trần thế của mình là
Quốc Gia Vatican, có một đường giây đối thoại thường
xuyên hơn với chính quyền Việt Nam. Ngoài ra, không có
thêm một chấm phết gì cho quyền bính của HGPCGVN cả!
Thực vậy, Quyền bính trong Giáo Hội đến từ Thiên Chúa. Ý
Chúa được thể hiện qua dấu chỉ này: «Ở đâu có hai ba
người họp lại nhân danh Thầy, thì có Thầy ở đấy, giữa
họ.» (Mt 18, 20). Việc bầu cử đầu tiên xảy ra trong Giáo
Hội để chọn người thay thế cho người tông đồ Giuđa bán
Chúa được diễn ra trong một cuộc họp mặt cầu nguyện và
rút thăm (!): «Họ rút thăm, thăm trúng ông Mát-thi-a:
ông được kể thêm vào số mười một Tông Đồ.» (Cv 1, 26).
Từ đó, cho dù Hội Thánh Chúa trải qua bao nhiêu cuộc bể
dâu, trong đó có những Giáo hoàng do Hoàng đế chỉ định,
các Công Đồng Chung do Hoàng Đế triệu tập, các giám mục
và linh mục do vua quan cất nhắc v.v., Giáo Hội của Chúa
Kitô vẫn nguyên vẹn như thời các Tông Đồ, theo niềm tin
kitô giáo. Bởi vì, Nhà nước chọn chớ đâu có quyền phong
chức, chính Giám mục (hiệp thông với Hội thánh) đã nhân
danh Chúa phong chức linh mục. Cũng vậy, Giám mục chỉ có
thể là giám mục của Chúa Kitô khi được Đức Giáo Hoàng bổ
nhiệm. Và Giáo Hoàng chỉ lên Ngôi sau khi được Hồng Y
Đoàn họp lại cầu nguyện và bình bầu (tán thành), cho dù
Ngài có được Hoàng đế chọn hay không… Đức tin dạy cho
người công giáo xác tín như thế, người trần thế xin miễn
bàn vào…
Lạm bàn: GHCGVN được sinh ra trong những thời nhiễu
nhương nhất của đất nước (hơn hai thế kỷ nam bắc phân
tranh), và trong sự cấm cách, bách hại, rồi sau đó lớn
lên trong sự đùm bọc trong chăn quá kỹ bởi các vị thừa
sai Pháp, kỹ đến mức phải chờ đến năm 1930 Giáo Hội VN
mới có được một Đức GM Nguyễn Bá Tòng. Nói trắng ra,
trong suốt thời gian 70 năm Đạo Chúa được phát triển
bình thường dưới sự bảo hộ của nước Đại Pháp và các thừa
sai Pháp, giáo phẩm và giáo dân VN chưa được trang bị
đúng với yêu cầu. Đến khi phải đương đầu với thử thách,
Giáo Hội không có lãnh đạo đúng tầm mức tình hình đòi
hỏi. Giáo phẩm và giáo dân VN phải tự sáng chế ra cách
đối phó, ở nhiều nơi rất tùy tiện và có nơi rất táo bạo.
Thư Chung 1951 của hàng giáo phẩm Đông Dương đặt ra một
tiền đề cho cuộc khủng hoảng dài lâu trong GHCGVN. Đó là
cuộc khủng hoảng gây ra do chính sách đối đầu với cộng
sản, cộng sản như một phong trào, một tổ chức, chứ không
riêng gì cộng sản như một học thuyết, mà hệ quả trước
mắt là cuộc di cư vĩ đại năm 1954.
Đến năm 1960, Giáo Hội VN có được một Hàng Giáo Phẩm VN
sinh ra để đáp ứng nhu cầu thời thế, xin cứ nói là sinh
non cho dễ hiểu. Nhìn chung, GHCGVN phải trải qua một
cơn khủng hoảng giao thời (hay khủng hoảng của tuổi dậy
thì) vào một thời buổi bất thuận lợi nhất cho Giáo Hội.
Bằng chứng là Thư Chung 1960 viết một cách vụng về, đặt
ra một tiền lệ rất nguy hiểm cho sinh hoạt của Giáo Hội:
đó là đặt Giáo Hội đứng hẳn về một phe, phe chống cộng,
thứ chống cộng dữ dằn nhất, triệt để nhất, dứt khoát
không đội trời chung với cộng sản. Rõ ràng là Giáo Hội
của Chúa Kitô bị đặt trong tình huống phải chịu thử
thách nặng nề trước đòi hỏi của Phúc Âm. Hoặc trở về với
Lời Chúa với những thiệt thòi, mất mát quá to lớn, hoặc
liều mình đánh mất bản chất và sứ mạng của Giáo Hội là
rao giảng Tin Mừng cho mọi người và mở rộng Tình Thương
Yêu Chúa đến với mọi người. Trong khi thiếu dứt khoát,
vô hình chung, kể từ Thư Chung 1960 trở về sau, trong
não trạng của người công giáo, có thêm một nhân đức, đó
là “nhân đức chống cộng”. Nhân đức này lại chiếm hàng
đầu trong các nhân đức, trên cả Đức Ái. Lời Chúa vô hình
chung bị méo mó lúc nào không biết: “Mọi người sẽ nhận
biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có
lòng “chống cộng” (theo Gn 13, 35). Ai không chống cộng
tức thị không phải là người công giáo, tệ hơn, chính là
“giáo gian”.[133]
Hình như Giáo Hội lúc bấy giờ quá chú trọng vào việc
phải đối phó với tình thế nhất thời để bảo vệ “Giáo Hội
cơ cấu” (khỏi bị bóng ma cộng sản xơi tái đến nơi), nên
để cho việc huấn luyện giáo dân đi theo định hướng sống
đạo nhất thời, là “đạo chống cộng”, thì còn lối nào làm
mục vụ để cứu vãn bản chất của Đạo Chúa đây? Vấn đề cấn
cái thật sự không phải là vấn đề chống cộng (vì thật ra
Giáo Hội phải chống cộng), mà vấn đề là tạo ra một môi
trường, một tình trạng mập mờ đánh lận con đen giữa đạo
với đời, dễ bị những con buôn chính trị và bọn tình báo
đế quốc lợi dụng khai thác và làm lu mờ, méo mó gương
mặt của Chúa Kitô trong Giáo Hội. May thay, Công Đồng
Vatican II đã đến kịp thời, nhưng còn phải lận đận rất
nhiều trong việc canh tân Giáo Hội. Cụ thể, từ 1963, các
cuộc học hỏi, sách vở, báo chí Saigon đã bắt đầu nói đến
những định hướng canh tân của Vatican II.[134] Các Đấng
Bản Quyền hướng về Vatican II tìm cách canh tân đời sống
cộng đồng Dân Chúa và kêu gọi hòa bình, như khuyến khích
sống đạo trong sạch, liêm sỉ, công bình bác ái với mọi
người để đất nước có cơ may giải trừ chiến tranh. Hình
như có một hố sâu giữa lời nói và hành dộng, giữa ý muốn
và thực hành, giữa người lãnh đạo và người thừa hành.
Thật là trần ai, vì làm sao giải trừ được chiến tranh,
khi mà cuộc tranh sống trong thời chiến tự nó đẻ ra
chiến tranh, và ngược lại, khi mà chiến tranh không dành
chỗ cho nếp sống bác ái công bình? Như vậy, nếu không
giải trừ được chiến tranh, thì chỉ còn nước là diệt trừ
chiến tranh thôi. Cũng không dễ, vì một đàng, mặc cho
lãnh đạo cứ kêu gào hòa bình, giáo dân cứ phải kéo lê
nếp sống tà tà chống cộng bệnh hoạn không giống ai. Đàng
khác, không riêng gì Việt Cộng, mà phía Quốc Gia cũng
không coi ra gì những Thư Chung hay Thông Cáo đòi hòa
bình của HGPCGVN. Nếu ai khác đòi hòa bình kiểu này thì
có cơ may xộ khám dễ như chơi. Đàng này, cứ y như là các
GM kêu gọi hòa bình để làm kiểng, để tỏ ra là có tiến bộ
với trào lưu thế giới…, chớ không cần có thực hiện được
hay không, và coi như cũng không cần giáo dân nghe theo,
(mà là sao nghe theo bấy giờ?). Điều này chứng tỏ là
Cộng Đồng Dân Chúa chưa trưởng thành: Giáo Hội cơ cấu cứ
làm việc của mình, còn cộng động tín hữu thì cứ đi chỗ
khác chơi… với chiến tranh! Đối với bên ngoài, lối sống
hai mặt này làm cho Đạo Chúa mất uy tín, lời Chủ Chăn
mất khả tín với mọi người, trước tiên là với người anh
em cộng sản. Sau 30.04.1975, người cộng sản không tặng
một huy chương hòa bình nào cho GHCGVN là vì thế; trái
lại, họ còn nghi ngờ nhiều hơn…
Và dĩ nhiên, khi phải chung sống hòa bình với người cộng
sản, một số tín hữu vẫn có thể nghĩ những lời giáo huấn
của HGPCGVN cũng giống như các Thư Chung và Thông Cáo về
hòa bình trước 1975 vậy thôi. Lúc này các lời huấn dụ ấy
phải chăng được một số giáo dân nhìn như một thứ bình
phong, một cái lộng, để che mắt thiên hạ. Khi HGPCGVN hô
hào ủng hộ chiến dịch này, chỉ thị kia của nhà nước,
nhiều con chiên cứ thoải mái nhỏ to với nhau rằng các
Ngài “nói dzậy mà hổng phải dzậy đâu”, các Ngài kẹt phải
làm dù che cho giáo dân nên phải ăn nói môi miếng vậy
thôi. Và cứ thế, giáo dân chống cộng ngoài nước cứ phải
lên tiếng răn đe các Ngài để mong các Ngài thú nhận rằng
“đúng, tôi nói vậy mà không phải vậy”. Nghĩa là nhiều
người mong muốn Đạo Chúa phải chịu sống trong sự chui
luồn, tráo trở, xoay xở, giả dối, giả hình, dĩ độc trị
độc, dùng mưu chước để chống lại chước mưu, dùng quỉ
quyệt để chống lại ma quỉ nay đã trèo leo lên đầu Giáo
Hội rồi…Nhưng làm thế để làm gì? Lại cũng để bảo vệ một
“Giáo Hội cơ cấu” co cúm lại để đối phó với một tình thế
nhất thời. Người viết hy vọng những điều nói đây chỉ là
bức hí họa đơn thuần của kẻ vừa đặt niềm tin vào Chúa,
vừa tin tưởng mãnh liệt hơn ở thế lực chính trị của trần
thế để giải trừ nạn cộng sản…
4.2-- GHCGVN trung thành với bản chất và sứ mạng rao
giảng Phúc Âm?
Đọc từng chữ các văn kiện chính thức của HĐGMVN và các
Giám mục VN, mọi người bên trong cũng như bên ngoài Giáo
Hội Công Giáo (kể cả những người cộng sản) đều phải công
nhận rằng qua các cách diễn tả bằng ngôn ngữ đôi khi rất
hiện đại (như chủ nghĩa xã hội, hòa giải, hòa hợp, lao
động, hợp tác, kinh tế mới, nông trường tập thể, yêu
nước, yêu chủ nghĩa xã hội, v.v.), những lời giáo huấn
của hàng giáo phẩm công giáo VN vẫn chứa đầy Lời Chúa và
giáo huấn của Giáo Hội Hoàn Vũ. Nơi các văn kiện ấy,
theo cái nhìn Đức Tin, người ta có thể thấy tất cả những
dấu chỉ thời đại đều có mang dấu ấn của Thần Khí Chúa và
đều có thể được giải mã qua lăng kính Phúc Âm. Nói tóm,
nội dung các văn kiện chính thức của HĐGMVN xác nhận,
triển khai, ấn định những đường hướng chung và những áp
dụng cụ thể sứ mạng và cách thế rao giảng Phúc Âm đúng
với bản chất của Hội Thánh Chúa Kitô. Vả lại, cũng theo
cái nhìn Đức Tin, người tín hữu công giáo phải hiểu rằng
những giáo huấn ấy đến từ các Đấng Bản Quyền và sẵn sàng
tôn trọng, nghe theo. Người cộng sản VN ắt phải hiểu vị
trí và vai trò của HĐGMVN (thành lập chính thức từ năm
1980), nên đã không ngừng bám vào phương châm chủ yếu
của Thư mục vụ năm đó, « Sống Phúc Âm giữa lòng dân
tộc», để mượn hơi hám Phúc Âm tuyên truyền cho đường lối
của mình. Không riêng gì người cộng sản, cả thế giới đều
chú mục vào những lời huấn dụ của Đức Giáo Hoàng để kéo
về chứng minh thuận hay nghịch với đường lối chính sách
của mình. Có gì đâu! Giáo hội cứ tiếp tục đi trên con
đường thênh thang của Chúa xuyên qua trần thế…, đầu đội
nắng, chân vương vấn bụi trần, nhưng đôi mắt lúc nào
cũng hướng về Nước Trời.
Có một điều mà ai cũng nhận thấy là trong hàng ngũ giáo
phẩm công giáo (cũng như giáo dân), có những nhận định,
quan điểm và cách ứng xử trước tình hình cụ thể mỗi nơi
có khác nhau. Khác nhau ít, và có trường hợp khác nhau
nhiều, như vụ Đức Tổng Giám mục Huế Nguyễn Kim Điền
[135] với biệt danh «TGM dũng cảm» do Đức Gioan Phaolô
II tặng cho. Có những điều bất bình không nói ra nên
lời, mà ai cũng đoán được là hầu hết đến từ các hàng
giáo phẩm và tín hữu Miền Bắc, là những người đã bị giam
hãm 20 năm trời tách biệt với thế giới bên ngoài, với
GHCG MN và với Tòa Thánh La Mã, cũng như với Công Dồng
Vatican II… Có những hành động lộng hành, phản kháng
(contestataire) âm thầm hoặc công khai chống lại Giáo
hội đến từ một nhóm linh mục tu sĩ và giáo dân «cấp
tiến»[136] là những người có tinh thần cởi mở, canh tân,
dấn thân hết mình vào trần thế tương tự như từng có ở
các nền văn hóa phương tây sau Công Đồng Vatican II. Các
Giám mục MNVN cũng là những người đã từng thấm nhuần
tinh thần Vatican II kể từ năm 1963, nên rất hiểu thái
độ cởi mở, bao dung, không-loại-trừ và không-lên-án của
Giáo Hội hậu Vatican II.
Cùng với toàn thể các Giám mục trong HĐGMVN, và riêng
trong mỗi giáo phận, các Ngài đã lãnh đạo một cách khéo
léo theo phương châm «sống Phúc Âm giữa lòng dân tộc»
một giáo hội đầy mâu thuẫn trong một hoàn cảnh đất nước
đầy những ý đồ phá hoại Giáo Hội. Người công giáo đủ
loại tiến bộ cũng như «cấp tiến» và người công giáo «cù
lần» cũng đều có được một chỗ đứng xứng đáng trong Giáo
hội, mặc cho ai đàm tiếu. Trong những hoàn cảnh cụ thể,
chính Giám mục Bản quyền giáo phận có quyền quyết định
cho phép ai đó được tham gia việc chính trị, hay Uỷ ban
Đoàn kết Yêu nước[137], v.v. Đứng từ quan điểm chính trị
chống cộng hay từ lập trường phản kháng tiến bộ ngoài
nước, người ta có thể đòi hỏi Giáo hội phải sống Phúc Âm
giữa lòng dân tộc đậm đà hơn, tiến bộ hơn, tích cực xây
dựng hơn cái kiểu « xìu xìu ển ển » xưa nay… Tốt thôi,
để ra ngoài người làm chính trị với cái nhìn thuần túy
chính trị, chúng ta mong quí vị sống chết với Phúc Âm
Chúa cứ tiếp tục làm tiên tri, nói tiên tri, mà vẫn tôn
trọng Đấng Bản Quyền đang hướng dẫn Hội Thánh Chúa hôm
nay tại nơi này trong những cuộc trao đổi, đối thoại với
các Ngài cho dù đôi khi có gay gắt…
Không riêng gì ở Việt Nam trong thời điểm này, mà trên
khắp thế giới và suốt giòng lịch sử của Giáo Hội, luôn
luôn có tình trạng trăm hoa đua nở trong Giáo Hội Chúa.
Mọi cánh hoa đều đẹp và đều tô điểm cho vườn hoa của
Chúa, miễn là đừng có cánh hoa nào muốn độc quyền nhân
lên choáng hết mảnh vườn muôn màu của Chúa[138]. Tất cả
trăm hoa muôn màu khác biệt này chỉ chứng minh có một
điều duy nhất: là trong Nhà Cha trên trời có nhiều chỗ
cho nhiều hạng người con, mà tất cả đều là con cái đáng
yêu và trung thành của Chúa. Người làm chính trị lắt léo
thì có quyền kết luận rằng, à thì ra, ở Việt Nam bên
Công Giáo không hề có một bộ phận lãnh đạo chìm đầy mưu
lược siêu đẳng, tính toán lợi hại, chơi nhiều lá bài
khác nhau để lúc nào cũng biết lèo lái tiến thối có bài
bản để giữ thế thượng phong. Cũng vậy, trên thế giới, họ
cũng thấy rằng không có một Đảng Công Giáo Toàn Cầu nào,
một Nhà Nước Bá Quyền Thế Giới nào, một Quyền Lực Siêu
Quốc Gia nào, một Trung Ương Tình Báo Quốc Tế nào ở quốc
gia Vatican để vươn bàn tay bạch tuột lũng đoạn bao trùm
khắp nơi.
Phải, không có một Sư Đoàn nào, cũng không có một Tài
phiệt tỷ phú nào ủng hộ cả, nhưng Lời Chúa vẫn cứ như
men, như muối, như nước thấm nhập từ từ khắp nơi, bất
chấp là có thiên thời, địa lợi và nhân hòa hay không,
bất chấp là có tự do giữ đạo hay độc tài cộng sản… Người
cộng sản Việt Nam, khi nghe ngóng những lời đạo đức và
khi tiếp xúc với gương mặt thơ ngay, đơn sơ, cởi mở, sẵn
sàng phục vụ và đầy thiện ý của vị TGM Nguyễn Văn Bình,
không thể không thấy được có một cái gì đó trong lành,
dịu dàng, khả tín, đầy trìu mến, vượt xa cả những người
anh, người em, người chú, người bác họ thường thấy. Thực
vậy, trong đời, họ chưa hề thấy một gương mặt người trần
nào như thế cả! Một Trần Bạch Đằng, một Nguyễn Hộ, một
Võ Văn Kiệt, một Mai Chí Thọ từ Cục R (Rừng) ra, có thể
chẳng hiểu ất giáp mô tê gì về chủ nghĩa xã hội trước
khi gặp ĐC Bình, và có thể đã được cái CNXH của Đức Cha
Bình cứu rỗi họ khi nào không biết…
Lạm bàn: Ngày nay, người cộng sản đã bắt đầu có cái nhìn
về người công giáo khác hơn là 30 năm trước? Điều này
chưa có gì dứt khoát cả… Chỉ biết là trước, trong và sau
vụ phong thánh các vị Tử Đạo tại VN, người cộng sản có
thể không thiếu ngỡ ngàng trước việc một số giáo phẩm và
giáo dân công giáo vẫn còn có người nghĩ thế nầy thế
khác, tuy có nói ra hay không. Tất cả những lý luận trái
nghịch nhau của dôi bên đều có một điểm chung duy nhất
này là họ thực tình yêu nước cùng lúc yêu Giáo Hội của
họ. Họ chỉ khác nhau về cách đánh giá mà thôi. Khi nhìn
thấy sự xâu xé nội bộ công giáo bị lộ ra trước mặt mọi
người, người cộng sản tin thật rằng người công giáo, từ
giám mục đến con chiên bổn đạo, đều có suy nghĩ riêng
tư, có ý thức trách nhiệm, có thực bụng lo lắng đến
quyền lợi đất nước, và vì thế có phần đáng tin cậy. Từ
đó, người cộng sản bắt đầu trực tiếp đối diện với kẻ thù
không nói ra trước đây của họ. Bằng chứng là họ đã chịu
nói chuyện trực tiếp với Tòa Thánh Vatican và HĐGMVN.
Thứ đến, người cộng sản thấy rất rõ điều này rằng trước
cũng như sau vụ Phong Thánh, người công giáo chống đối
nhau khá quyết liệt về cung cách sống Phúc Âm giữa lòng
dân tộc. Họ thấy rõ, một đàng, người công giáo chỉ có
một Đức Tin, một Giáo Hội, một cấp lãnh đạo, (nhóm CG và
DT cũng như UBĐKCGYNVN không nhằm nhò gì vào đó cả).
Đàng khác, người công giáo lại có những quan điểm khác
nhau (đôi khi xung khắc mãnh liệt, chia rẽ trầm trọng)
về cách dấn thân vào trần thế, như cách hợp tác với Nhà
nước, cách cảm nhận trước những biến cố lớn của đất
nước, v.v. Khác nhau thì có nhiều, nhưng có một điều rất
quan trọng là người công giáo đồng ý với nhau bằng mọi
giá phải phục vụ con người, tức là đồng bào mình, cách
riêng là những thành phần bất hạnh trong xã hội. Về điểm
này, người công giáo không so bì mặc cả gì với người
cộng sản hết, trái lại họ sẵn sàng gạt bỏ những khác
biệt để đồng ý hợp tác với chính quyền, chẳng hạn dạy dỗ
thiếu nhi nhi đồng, cứu đói giảm nghèo, chăm sóc người
nghiện ngập, nâng đỡ người bị bệnh Siđa ở giai đoạn chót
v.v., mà không hề có một hậu ý gì cả. Hơn nữa, người
cộng sản nhìn thấy người công giáo bây giờ lại đâm ra lo
cho sự suy thoái của cán bộ đảng viên còn nhiều hơn
chính họ! Nói cách khác, thay vì e dè người cộng sản là
cộng sản, thì người công giáo lại e dè người cộng sản
biến chất và phá hoại đất nước. Trong thực tế, theo con
mắt nhận xét của người cộng sản, sau 30 năm sống Phúc Âm
giữa lòng dân tộc, người công giáo nói chung tỏ ra xứng
đáng là người Việt Nam hơn mức trung bình, và hơn cả một
số không nhỏ người cộng sản nữa…Nhìn tới nhìn lui, ngày
nay hình như chỉ có người công giáo là đáng tin cậy đối
với người cộng sản thôi.
Bằng chứng là những vấn đề như an ninh nội chính, trật
tự công cộng, lành mạnh xã hội đã được chứng minh là
tốt, rất tốt ở những khu vực có đa số là người công
giáo, như Hố Nai, Gia Kiệm, Vườn Xoài (Quân 3 Tp HCM),
v.v. Người công giáo tỏ ra có tinh tinh thần kỷ luật, có
ý thức bảo vệ của công, rất chuyên cần trong việc làm ăn
sinh sống. Kể cả những nữ tu, ngay từ những ngày đầu
chấm dứt chiến tranh, đa số đã xắn tay áo xông xáo dùng
chính một phần tu viện của họ để tăng gia sản xuất, tạo
công ăn việc làm (thủ công) cho rất nhiều bà con lao
động công giáo cũng như bên lương. Bằng cách ấy, họ năng
nổ xây dựng đất nước. Ngày nay, người cộng sản bắt đầu
tin rằng bên trong Thiên Chúa Giáo không có một bộ phận
thống nhất các hành động thuộc trần thế với ý đồ (hay
hậu ý) tính toán lợi hại, đổi chác, mặc cả gì đối với
họ. Hơn nữa, họ không còn sợ bóng ma công giáo có âm mưu
phản động, muốn khuynh đảo họ. Người công giáo, trái
lại, có ý thức tôn trọng chính quyền, công quyền, hòa
bình, công bình hơn mức trung bình của người dân, và cao
hơn một số người cộng sản nữa. Người viết được bạn bè
cho biết có một vài bản nghiên cứu của Viện Khoa học Xã
hội có nêu lên được một số kết luận tương tự như những
điều vừa nói.
Thế nhưng, nếu như ai có dịp về Việt Nam và tiếp xúc với
giới công giáo, thì có thể nghe dư luận trong nội bộ
công giáo khác xa với những điều vừa nhận xét trên. Nói
chung, từ con mắt Đức Tin, người công Giáo cho rằng Giáo
Hội Chúa chưa sống đúng với tinh thần, bản chất và sứ
mạng rao giảng Phúc Âm. Có người cho rằng HGPCGVN chỉ cố
bảo vệ “Giáo Hội cơ cấu” đến mức hy sinh quá nhiều điều
trong lãnh vực sống và làm chứng cho Tin Mừng. Thật
tình, chưa bao giờ trong nội bộ công giáo có những lời
lẽ đả kích nhau ngấm ngầm dữ dằn như bây giờ, từ tu sĩ
linh mục đối với nhau cũng như đối với giám mục bản
quyền của mình hay đối với HGPCGVN, từ một số giáo dân
đối với một số linh mục, tu sĩ, v.v. Nhiều tín hữu đòi
hỏi Giáo Hội phải nghèo hơn với đồng bào khốn khổ, bớt
đi chuyện xây cất nhà thờ trang trọng (biết rằng tình tự
truyền thống của người VN nói chung là sẵn sàng hy sinh
tài sản riêng để cúng dường cho việc xây dựng nơi thờ
phụng tôn nghiêm được tươm tất, cao ráo). Họ đòi hỏi
linh mục phải sống xứng đáng hơn, phải hòa mình hơn với
nếp sống quần chúng lao động, v.v. Linh mục thì ngày
càng lo sợ con chiên bổn đạo hư hỏng ra, mải lo bương
chãi làm ăn mà lơ là việc giáo dục con cái cho nên
người, cứ đua đòi bon chen mà lỗi bổn phận công dân và
luật Chúa…
4.3-- Phúc Âm của Chúa Kitô dạy «lấy chí nhân mà thay
cường bạo» ?
Xuyên suốt lịch sử Đạo Công Giáo tại Việt Nam, nhất là
kể từ 60 năm trở lại đây trong đó có 30 năm sống dưới
chế độ XHCN, người Việt Nam mai sau nhìn lại sẽ không
khỏi có cảm giác rằng tinh thần kitô giáo có cái gì
giống với tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam
là, đang khi duy trì cái đức «Trí» và «Dũng», người kitô
giáo vẫn đặt nặng cái đạo làm người, mà cái đức «Nhân»
là cơ bản. Như Nguyễn Trãi đã bảo:
"Lấy chí nhân mà thay cường bạo,
Đem đại nghĩa để thắng hung tàn. »
Có thể như thế không? Có thể, nếu mai này người ta đem
so sánh cộng đồng công giáo với hai phe chính trị đối
nghịch tuyệt đối không đội trời chung với nhau là Cộng
Sản (CS) và Quốc Gia (QG). Người ta sẽ có lý mà nhận
định rằng người CS chỉ biết có máu lửa và hận thù, chỉ
có bạo lực cách mạng, chỉ hiểu thứ ngôn ngữ của vũ lực,
chỉ nhân nhượng khi tương quan lực lượng ngã hẳn về phía
đối nghịch; và nếu có chủ trương hòa bình thì đó là thứ
hòa bình bằng họng súng. Nói chuyện nhân nghĩa với người
CS, họ không hiểu, hoặc hiểu lệch lạc ra thành thủ đoạn
lừa bịp, lợi dụng nhau thôi. Riêng với đường lối gian
giảo của người cộng sản vô thần, Thư Chung 1951 và 1960
của các Giám mục Đông Dương và Miền Nam đã lột mặt nạ
yêu nước của họ từ lâu rồi. Vì thế, nhìn lại giai đoạn
này, không ai có thể nói hàng giám mục VN bị mắc bẫy CS
được cả; có chăng là bị mắc bẫy sự điên rồ của Thập Giá
mà thôi…
Ngược lại, người ta cũng có lý cho rằng người QG chỉ
biết tin tưởng vào sức mạnh thô bạo của quân lực đế quốc
Pháp và tân đế quốc Mỹ, mà bỏ ngỏ lòng dân cho Cộng sản
mặc sức thao túng. Quân lực nào cũng tàn ác, sắt máu, ác
nhân thất đức, chuyên giết người không gớm tay. Các
chính phủ QG từ Bảo Đại trở đi đều bị bóng ma CS ám ảnh
đến mức nhìn đâu cũng thấy toàn CS và sẵn sàng ra tay
thủ tiêu họ cũng như nhờ tay ngoại bang diệt trừ họ bằng
bất cứ thứ vũ khí độc hại nào, bất kể họ đứng một mình
hay đang lẩn tránh trong lòng dân chúng. Chính bóng ma
CS đã làm cho người QG trở nên ác độc trước con mắt của
người cộng sản và của người dân quê mùa chất phác. Chiến
tranh, vì thế, đã trở nên khốc liệt, vô tâm và dã man
chưa từng thấy trong lịch sử nhân loại nói chung và Việt
Nam nói riêng. Nếu giả thiết đôi bên QG và CS cứ tiếp
tục có điều kiện về vũ khí và phe cánh ủng hộ ngang bằng
nhau, chắc chắn chiến tranh VN không bao giờ có cơ may
chấm dứt, hận thù cứ thế ngút ngàn, mặc cho xương máu
của đồng bào ruột thịt hai bên chiến tuyến đổ thành
sông, chất thành núi.
Rồi, sau 30 năm chấm dứt chiến tranh, phe QG đại bại vẫn
tiếp tục nuôi căm thù, đứng lên xưng hùng xưng bá ở
phương trời tây và không ngớt giành giật nhau cái quyền
lãnh đạo cuộc tranh đấu giải phóng đất nước mai sau, cho
dù nỗ lực ấy hãy còn trong trứng nước hay có cơ may
thành tựu, bởi mỗi phe cánh đều trông chờ vào sự hỗ trợ
của ngoại bang hơn là của chính người dân trong nước.
Ngay cả người chính khách công giáo cũng chưa chắc dám
tin tưởng những người đồng đạo của mình đang phấn đấu
sống trung thành với Đạo Chúa và nhân ái với người anh
em cộng sản. Họ sẽ nghĩ sao khi mà trước đây người Pháp
lấy cớ triều đình bắt đạo để xâm chiếm nước ta, và nay
người Mỹ được yêu cầu lấy cớ CSVN bắt đạo để can thiệp
một lần nữa vào nước ta? Về phía kẻ chiến thắng, sau 30
năm Đại thắng Mùa Xuân và củng cố địa vị của họ trong
thời bình với giá mồ hôi xương máu nhân dân cũng đắt đỏ
tương đương với thời chiến, người CS cứ thế mà say sưa
tự phụ với mùi khói súng chiến thắng. Say sưa đến nỗi
một cựu lãnh tụ cộng sản như Võ Văn Kiệt đã phàn nàn
trong bài phỏng vấn của Tuần Báo Quốc Tế, Bộ Ngoại giao,
được phổ biến trên mạng, nhân ngày ăn mừng kỷ niệm 30
tháng 4 năm 2005, rằng «khi nhắc lại, có hằng triệu
người vui, mà cũng có hằng triệu người buồn. Đó là một
vết thương chung của dân tộc cần được giữ lành thay vì
lại tiếp tục làm cho nó thêm rỉ máu».
Quả vậy, 30 năm chấm dứt chiến tranh rồi, mà hòa bình
vẫn chưa ló dạng, vết thương chiến tranh vẫn còn rỉ máu
và mỗi ngày như một xé ra thêm… Cũng vì muốn góp phần
hàn gắn vết thương rách nát của dân tộc đáng yêu này, mà
hàng giáo phẩm công giáo Việt Nam đã táo bạo kêu gọi hòa
bình nhiều năm trước, và nhất là lớn tiếng kêu gào người
công giáo hãy ở lại xây dựng Quê hương kể từ khi các
đoàn chiến xa của Bắc Việt hùng hổ càn quét non sông
MNVN, tiến thốc từ Quảng Trị về Sài Gòn trong vòng hơn
một tháng vào Mùa Xuân 1975. Không, các Ngài không ngây
ngô đến mức tin rằng người cộng sản sẽ hết là cộng sản
sau khi chấm dứt chiến tranh, mà chỉ mong rằng dù sao họ
cũng vẫn là người và có thể đối thoại được với họ để tìm
cho ra một lối chung sống hòa bình, góp phần chữa lành
được phần nào vết thương của hận thù chiến tranh. Hơn
nữa, các Ngài tin rằng người công giáo có thể thay đổi
được cái nhìn về người cộng sản một khi họ hiểu được với
Lòng Tin sáng suốt rằng người cộng sản cũng là con cái
của Chúa và là người anh em của họ mà Chúa buộc phải yêu
thương…
Niềm mong đợi đối với người CS cũng như niềm tin đối với
người tín hữu của HGPCGVN quả là vụng về, non dại, ngớ
ngẩn, nếu xét về mặt con người trần tục. Thật là gian
nan khi muốn xây dựng hòa bình công chính, triệt để xóa
bỏ hận thù, sống hòa hợp với nhau trong lúc đôi bên thù
địch vẫn mài dao thủ sẵn để chơi nhau và lôi kéo dân
chúng về phe của họ để yêu nước theo cách thế của họ:
Yêu nước là yêu CNXH, và yêu nước là yêu Quốc Gia. Hàng
giáo phẩm công giáo thì lúc nào cũng lạc quan, tin
tưởng, trông chẳng giống ai cả!… Tuy nhiên, cái làm được
trước mắt đến đâu vẫn là chuyện nhỏ, cái tâm thành của
cộng đồng công giáo muốn cố gắng hòa đồng với thân phận
của dân tộc bất luận là người cộng sản có xứng với lòng
dân hay không, đó mới là chuyện lớn. Mai sau, lịch sử có
thể nhìn nhận rằng chính cái lòng thơ ngây trong trắng
của những nhà tu hành công giáo và cái lòng thành của đa
số người tín hữu trong cộng đồng công giáo vẫn trước sau
như một sau 30 năm thử lửa đã làm mát lòng đồng bào VN,
xoa dịu được phần nào vết thương lòng của con dân Việt
Nam, chiếm được lòng tin cậy của nhiều người, trong đó
phải kể có một số người cộng sản thường vẫn nghi ngờ và
thù hận họ.
Có lẽ đúng như văn thư các Giám mục đã nói, đây là dịp
may để người công giáo sống trọn niềm tin yêu Chúa và
đồng bào bằng cách sống hòa đồng với mọi người đang khi
chịu một số thiệt thòi về mình. Trong quá khứ, chưa bao
giờ bà con Việt Nam được thấy cảnh giám mục, linh mục,
tu sĩ nam nữ ăn mặc bình dị, ai sao tôi vậy, chân lấm
tay bùn, cùng giáo dân đề huề lao động sản xuất. Cũng
chưa bao giờ bà con ta thấy linh mục chính xứ bị chính
quyền phường xã cư xử ngang phè, đôi khi còn tồi tệ hơn
cả người dân ngụy. Các nhà tu hành công giáo bị học tập
cải tạo tại chỗ gấp nhiều lần hơn những thành phần dân
chúng khác. Người công giáo nói chung vẫn chịu đựng
thiệt thòi một số quyền lợi, như một thứ công dân hạng
hai. Lần đầu tiên, dân chúng thấy đạo công giáo trở nên
khiêm nhu, bình dân, chấp nhận thân phận nhỏ bé trong
lòng dân tộc. Chưa bao giờ bà con VN cảm thấy gần gũi
với người công giáo bằng 30 năm đồng lao cộng khổ dưới
chế độ hà khắc xã hội chủ nghĩa. Thực vậy, nhiều người
cảm thấy nếp sống Phúc Âm của Chúa cũng thắm thiết tình
tự dân tộc và cũng được bà con thiện cảm đón nhận như
một nếp sống truyền thống của dân tộc Việt Nam! Nếu đúng
thế thì định hướng «hòa nhập văn hóa» của GHCGVN đã bắt
đầu tỏ hiện rõ ràng rồi vậy…
Lạm bàn: Không hoàn toàn như thế! Văn chương công giáo
trong nước, nhất là văn chương Công Giáo và Dân Tộc,
hoàn toàn khác với văn chương công giáo ngoài nước. Mỗi
ngày, cứ mở các mạng lưới trong và ngoài nước để theo
dõi dư luận của riêng người công giáo, người ta nhận
thấy có tình trạng trống đánh xuôi kèn thổi ngược. Còn
nhiều ân oán giang hồ với nhau, mang nặng tinh thần bạo
động, độc đoán, ác ý, hiềm khích, hận thù. Chưa bao giờ
các giám mục bị người công giáo chê bai, sỉ vả, khinh
miệt đến như thế. Lạ lùng, nếu mai sau nhìn lại, người
ta không khỏi ngỡ ngàng khi thấy lời chê thì quá nhiều,
đang khi lời khen thì chẳng bao nhiêu, trong khi người
công giáo nổi tiếng là rất sùng bái các vị chức sắc
trong giáo hội! Người ta không thấy có giám mục nào
(ngoài Đức Tổng Giám mục Nguyễn Kim Điền) được đề cao
như mẫu gương điển hình một Chủ Chăn. Có người phê thẳng
thừng là các Ngài “lấy ươn hèn mà thay cường bạo” thì
có… Không biết những kẻ lớn tiếng phê phán HGPCGVN nghĩ
sao về đoạn Thư mục vụ 1973 nhắn nhủ riêng với tín hữu
công giáo nên đề phòng những kẻ phá đạo: “Kẻ thù Giáo
hội muốn phá đạo, việc đầu tiên họ làm là bôi lọ hàng
Giáo phẩm, chia rẽ các Ngài với giáo dân. Chính Chúa
Kitô đã nói trước, để ta đề phòng: «Đánh chủ chăn, thời
đoàn chiên tan rã.» (Mt 26, 31) ».
Về tình trạng Giáo Hội nói chung, chẳng mấy ai có thể
hiểu được tại sao HGPCGVN coi việc một giáo hội công
giáo phải sống dưới ách kiềm kẹp nham hiểm và thô bạo
của chế độ cộng sản là một dịp may để sống rốt ráo Đạo
Chúa cả. Có kẻ cả quyết rằng chỉ có khùng mới coi việc
sống dưới một chế độ xây dựng trên bạo lực cách mạng là
ân sủng Chúa ban để thanh lọc Giáo Hội, để các linh mục
đỡ lè phè quan liêu, cho tu sĩ đỡ ăn vạ nhà Chúa, hay
cho giáo dân trưởng thành hơn trong Đức Tin. Có người
nghĩ rằng nếu được làm một cuộc nghiên cứu xã hội về nếp
sống của cộng đồng công giáo dưới chế độ hiện hành, chắc
người ta sẽ khám phá ra một điều mà mọi người có thể
tiên liệu dễ dàng là: người có tín ngưỡng hay không tín
ngưỡng, công giáo hay không công giáo, đều bị cái guồng
máy vô tâm khổng lồ của nhà nước XNCN nghiền nát hết.
Tất cả mọi công dân VN đều bị hư hỏng, mục nát, rữa thối
cách này hay cách khác, không phải chỉ từ ngoài vào mà
nhất là từ bên trong ra. Thật vô phương cứu chữa! Có thể
có một số trường hợp biệt lệ (chẳng hạn như trường hợp
một Nguyễn Khắc Dương) may chăng mới thoát khỏi sự tàn
phá độc hại của một chế độ xã hội không chỉ là bất nhân,
mà là vô nhân, nghĩa là không có một tiêu chuẩn luân lý
nhân bản nào được dùng để làm nơi qui chiếu cho hành
động nhà nước và các cơ sở dân sự cả. Đến thời mạt vận,
kiệt vận của đất nước là như thế sao!
Vết thuơng chiến tranh vẫn còn đó, và còn bầy nhầy thêm
ra…Bởi hậu quả của chiến tranh vẫn tiếp tục đè nặng lên
người dân, và càng ngày càng tác hại nhiều hơn. Chẳng
hạn, những con người chiến thắng hôm trước trên trận
địa, hôm nay họ tiếp tục vin vào cuộc chiến thắng đó mà
trâng tráo trấn lột và thô bỉ hưởng lợi trên đầu trên cổ
nhân dân. Không có một sức mạnh thần thánh nào có thể
thay đổi được lòng dạ tham lam vô đáy của họ được. Họ
hết còn là người chăng, người công giáo không dám nghĩ
như thế, nhưng thực tế phũ phàng hơn vạn lần lòng mong
đợi của một Đức Tổng Giám mục Nguyễn Văn Bình. “Lòng
thành” của những đấng chân tu như ĐC Bình có củng cố gì
thêm cho sự cuồng tín kiêu căng vô độ của người cộng sản
không? Lịch sử sẽ trả lời cho câu hỏi này. Tuy nhiên,
phải nhìn nhận một điều hiển nhiên này là chiến tranh tự
bản là một cái gì vô cùng độc ác và tai hại trước mắt
cũng như về lâu về dài. Tốt nhất là phải triệt để không
dùng đường lối chiến tranh để thắng ai cả, vì cuối cùng
chẳng thắng được ai, mà tất cả đều thua thiệt thôi!
4.4-- Phấn đấu cho Hòa bình, hòa giải, hòa hợp dân tộc,
như lòng dân mong
muốn ?
Nếu chỉ căn cứ vào tình trạng xung khắc giữa hai nếp suy
nghĩ và hai nếp sống của đôi bên, lẽ ra người công giáo
hữu thần không thể chung sống với người cộng sản vô thần
được. Các Thư chung 1951 và 1960 đã nói rõ hơn bao giờ
hết bản chất của học thuyết cộng sản vô thần và vạch
trần bộ mặt giả nhân giả nghĩa, đầy thủ đoạn và tham
vọng khuynh đảo nhà nước, cướp chính quyền và thống trị
toàn cõi đất nước của người cộng sản, nên đã chủ trương
triệt để bài trừ nạn cộng sản. Cứ sự thường, người công
giáo phải là người đầu tiên và cuối cùng chống cộng; và
như thế thì người dân Việt Nam đáng yêu của họ sẽ lãnh
đủ thôi! Làm sao đây? Các văn kiện của HĐGMVN đã được
trích dẫn cho thấy HGPCGVN lại quyết định lội ngược dòng
dư luận với một chủ trương hòa bình không giống ai cả!
Giáo Hội phấn đấu kiên trì và gian khổ cho một giải pháp
hòa bình cho Việt Nam kể từ 1963, tức là từ khi bắt đầu
khóa họp đầu tiên của Công Đồng Vatican II. Tinh thần
hòa bình xuất phát từ Công Đồng, bởi vì Công Đồng ý thức
được trách nhiệm đối với thế giới loài người mà trọng
tâm của đường hướng phục vụ của Giáo Hội La Mã là xây
dựng phẩm giá làm người trên cuộc sống hòa bình, nhân
ái, công bình cho con người ở đời này, nơi mà Chúa đã
đến làm người và ở cùng chúng ta...
Lập trường hòa bình của GHCGVN, ngoài tất cả những tham
vọng trần thế hoặc thủ đoạn xu thời đón gió, là một sự
chọn lựa rất chín chắn của lòng yêu nước và yêu Chúa,
cho dù phải bị xâu xé đến tận tâm can do bởi ý thức được
rằng, một đàng những hy sinh gian khổ sẽ quá to lớn khi
phải chung sống hòa bình với người cộng sản, và đàng
khác không thể từ chối những đòi hỏi bức bách của Phúc
Âm trong lúc mà vị Giáo Hoàng La Mã Phaolô VI đã tận lực
phấn đấu cho hòa bình Việt Nam. Theo bước chân các vị
Giáo Hoàng tiền nhiệm kể từ đầu thế kỷ 20 trải qua hai
cuộc đại chiến thế giới, Đức Phaolô VI thao thức mãi
trước vấn đề nóng bỏng là tại sao «con người trở thành
chó sói đối với con người» (homo homini lupus) và đề
nghị cho người tín hữu và nhân dân thế giới cùng nhau
tìm cách xây dựng một nền văn minh hòa bình công chính
lâu dài cho thế giới. Ngài là vị Giáo Hoàng tranh đấu
liên lỉ và không mệt mõi cho hòa bình Việt Nam.
Chính Ngài và vị kế nhiệm, Đức Gioan Phaolô II, là hai
gương mặt vô địch thế giới tranh đấu quyết liệt cho hòa
bình thế giới [139]. Trong lúc mà cuộc chiến tranh Việt
Nam leo thang do sự đơn phương can thiệp của Mỹ, chính
Đức Phaolô VI đã lên tiếng trước Đại Hội Đồng LHQ ngày
04.10.1965 thống thiết kêu gọi: «Đừng bao giờ gây ra
chiến tranh nữa! Đừng bao giờ gây ra chiến tranh nữa!»
Ngài đau khổ vô cùng trước sức tàn phá dã man của một
cuộc chiến vượt quá mọi giới hạn đạo lý làm người. Ngài
đã nhiều lần lên tiếng khẩn thiết kêu gọi các bên phải
vào bàn hội nghị, thương thảo, đối thoại, tìm cách chấm
dứt chiến tranh và lập lại một nền hòa binh công chính,
dài lâu cho dân tộc Việt Nam. Tội nghiệp, những lời hô
hào tha thiết của Đức Phaolô VI và HĐGMVN (Miền Nam) đã
như tiếng kêu trong sa mạc, mà thỉnh thoảng có tiếng
vọng lại từ Việt Nam nghe chua chát như đâu Vatican đã
ăn phải bả của Cộng Sản rồi!
Giáo Hội Công Giáo La Mã đeo đuổi thật tình một nền hòa
bình cơ sở trên lòng người, trên quyền sống tự do của
con người, quyền được cơm áo, được luật pháp bảo vệ,
được đối xử công bình và bình đẳng, tất cả đều phải được
xây dựng trên tinh thần tương thân tương ái, tương kính,
chia sẻ ngọt bùi với nhau, được bảo đảm sống trong tự
do, an lạc, no ấm…Như thế, hòa bình vừa là điều kiện để
con người có thể sống làm người, và cũng là kết quả của
nỗ lực làm người của loài người vậy. Chiếu theo Thông
Điệp « Hoà bình trên Thế giới » (Pacem in terris), «
Phát triển các dân tộc » (Populorum progressio), Hiến
chế Vui mừng và Hy vọng (Chương 5), và 25 sứ điệp hòa
bình loan đi khắp thế giới nhân Ngày Hòa Bình Thế Giới
vào mồng một tháng Giêng mỗi năm, người ta có thể hiểu
được khái niệm hòa bình kitô giáo đề nghị cho con người
ra sao.
Đang khi các cường quốc thi đua vũ trang (với vũ khí
giết người tập thể ngày càng khủng khiếp hơn) và gây
chiến với nhau ở những nút chắn, tiền đồn, mà các bên
dùng làm con cờ thí cho ý đồ của họ, thì Giáo hội La Mã
lớn tiếng mời gọi mọi người thiện tâm trên thế giới hãy
xét mình để nhận thấy việc thực hiện hòa bình là bổn
phận của mọi người và cùng nhau vận động cho một nền hòa
bình công chính và liên đới hòa hợp hơn. Nhưng quan niệm
hòa bình của Giáo hội sở dĩ khó thành tựu là vì nó đòi
hỏi quá nhiều hy sinh về mọi mặt để thực hiện nó. Hơn
nữa, nó đi ngược lại ý chí cường quyền và lòng tham vô
đáy của các thế lực đen tối nhất nhì trong lịch sử nhân
loại.
Quả vậy, Thư luân lưu của HĐGMVN (Miền Nam) ngày
05.01.1969 đã kêu gọi tất cả các bên lâm chiến phải thực
thi «hòa bình đích thực»: «Một lần nữa, chúng tôi xác
nhận rằng: Hoà bình không có nghĩa là không có chiến
tranh. Hòa bình không phải là thế quân bình giữa hai lực
lượng đối lập. Hòa bình chân chính không phải là hòa
bình chiến lược. Hòa bình phải là thăng tiến nhân quyền.
Hòa bình là trật tự trong công lý và khôn ngoan, là sự
hòa hợp của cộng đồng dân tộc để cùng nhau mưu cầu công
ích, là kết quả của tình thương quảng đại bao dung, xóa
bỏ hận thù, là nỗ lực không ngừng để cải thiện đời sống
xã hội và đem ích chung cho mọi tầng lớp của người dân
(trích ĐTC Phaolô VI). Hòa bình ấy chúng ta xây dựng
không phải bằng khủng bố đàn áp, mà bằng nghị lực tinh
thần, vừa tin tưởng vào sức mạnh thiêng liêng phù trợ,
vừa tin tưởng mãnh liệt vào tiền đồ tổ quốc…» (Người
viết nhấn mạnh nhiều chỗ).
Thực ra, không thể có hòa bình, nếu không có hòa giải;
và hòa giải chỉ trở thành hiện thực khi có cuộc sống hòa
hợp giữa các thành phần dân chúng, cũng như giữa người
cộng sản và người không cộng sản. Hơn nữa, hòa giải và
hòa hợp chỉ có ý nghĩa và chỉ được mọi con dân phấn khởi
chấp nhận một khi nó thực sự đem lại công ích, cải thiện
đời sống xã hội, đem lại tự do, no ấm cho nhiều người.
Cái ray rứt của người con dân Việt Nam và người công
giáo yêu nước là tất cả những thứ ngôn ngữ hoa mỹ trước
cũng như sau 1975 của người cộng sản, như hòa giải hòa
hợp, xóa bỏ hận thù, quên quá khứ, hướng về tương lai,
đều được thực tế xác nhận chỉ là những chiêu bài tuyên
truyền, phô trương, hào nhoáng và gạt gẫm… Không phải vô
lý mà dân gian bêu rếu XHCN là «xạo hết chỗ nói» để dân
phải «xếp hàng cả ngày» trong một «xã hội chỉ nói».
Không lẽ tự nhiên mà dân tình ta thán «bao năm chinh
chiến ta gần gũi, giờ đã thanh bình lại biệt ly» hay
«cột đèn mà có chân thì cũng ra đi thôi!», hoặc «đồng
khởi lên rồi hết tự do» bà con ơi! Nếu mai này nhìn lại,
người Việt Nam thấy ra rằng cộng đồng công giáo VN không
phải nói chơi, mà đã nói thiệt và làm thiệt, từng chập
nhắc nhở nhau sám hối về những lỗi lầm đã qua, hằng cố
gắng canh tân và hòa giải với mọi người, và nỗ lực đem
lại thanh bình, vui sống bên nhau khi mà cuộc sống trở
nên khó khăn, đe dọa tứ bề, nổi trôi vô định, lòng người
tan nát, kẻ ở người đi…., thì đã đủ để để nói rằng
GHCGVN đã đáp ứng lòng mong mỏi của dân chưa?
Thư mục vụ 1992 của HĐGMVN trả lời cho câu hỏi này khi
khẳng định thế nào là đồng hành với dân tộc: « Tinh thần
đồng hành của chúng ta là tinh thần nhập thể của Chúa
Giêsu Kitô. (…) Chúa đã phục vụ bằng một tình yêu vừa
mạnh mẽ vừa dịu dàng: Chúa tự đồng hóa với những người
nhỏ bé, yếu đuối, nhưng Chúa cũng không khoan nhượng với
bất công, bóc lột và bất bình đẳng; Chúa đã dùng lời nói
và hành động để tố cáo những tội ác chà đạp con người và
xúc phạm đến Thiên Chúa. Chỉ bằng con đường phục vụ như
thế, chúng ta mới có thể tuyên bố rằng Đức Kitô là câu
trả lời cho mọi ước vọng của loài người.» (người viết đã
ghi đậm nhiều chỗ). Quả vậy, đây chính là đòi hỏi của
đường hướng «hòa nhập văn hóa» và cách thế «sống Phúc Âm
giữa lòng dân tộc» đúng với Ý Chúa hơn và đáp ứng được
sự mong chờ của đồng bào hơn.
Lạm bàn: Tuyệt hảo! Những gì được HGPCGVN nói lên và nêu
gương từ trước cho đến bây giờ thật là tuyệt hảo… Chỉ có
điều là bức tranh quá đẹp để có thể tin là hiện thực
hoặc khả thi. Thực ra, lòng tốt không đủ để thay đổi xã
hội. Những người thiện chí vẫn bị đầy đọa vô số nơi địa
ngục. Lòng đạo đức cũng không dời được núi sông. Đó là
sự thất bại của tôn giáo. Đó cũng là sự thất bại riêng
của Đức Thánh Cha Phaolô VI đối với nỗ lực mưu cầu hoà
bình cho Việt Nam. Tội nghiệp, Người Cha đáng yêu của
dân tộc Việt Nam này đã từng khóc thương cho số phận hẩm
hiu, bạc phước, khốn cùng của cộng đồng dân tộc Việt
Nam. Người viết xin làm chứng cho điều này…
Tiện đây, xin trích lại một đoạn trên do HĐGMVN “nói
riêng với tín hữu công giáo đang bị dao động, hoang mang
cực độ truớc tình thế bấp bênh, bất định, Thư mục vụ
1973 nhắc nhở anh chị em không được «nản lòng thất vọng»
vì có sức mạnh của Chúa ở với chúng ta (Pl 4,13). «Ngoài
ra, việc nhiều và khó nói trên, ta không làm một mình.
Toàn thể Giáo hội ở bên cạnh ta, nâng đỡ ta. Đức Thánh
Cha đáng mến đã, đang và sẽ hỗ trợ ta. Hãy bám chặt vào
Ngài như một tảng đá vững chãi Chúa xây Giáo hội trên đó
(Mt 16, 18) (Người viết nhấn mạnh).» [140]
Nói xin lỗi, những tín hữu nào tin nằm lòng vào sự nâng
đỡ của Giáo Hội Hoàn vũ hay sự hỗ trợ của Đức Thánh Cha
đáng mến mà «bám chặt vào Ngài » để ở lại xây dựng Quê
hương Đất nước sau 30.04.1975 sẽ cay đắng nhận ra rằng
lòng đạo không đủ để không «nản lòng thất vọng» và càng
không đủ để xây dựng đất nước. Không có gì xót xa bằng
phải chứng kiến cảnh đất nước tan hoang đầy đọa đến tận
cùng địa ngục đang khi mình và toàn dân hoàn toàn bất
lực trước bạo lực cách mạng, và phải nhìn cảnh ngang
trái kỳ quặc kẻ ở người đi, cõi lòng tan nát, ruột gan
quằn quại, và cứ thế kéo dài năm này qua năm khác. Trong
lòng người Việt Nam và một số người công giáo, hình như
có một nỗi u hờn lẩn khuất đâu đó, âm thầm dằn vặt tâm
tư họ đối với họ, hay đối với ai, hoặc đối với lẽ sống
nào cũng không ai biết được!
Trước 1975, không chỉ có một giáo sư Lý Chánh Trung biết
phẫn nộ gào thét trước cảnh «những con vật có hai chân»
bị bom đạn Mỹ dầy xéo thảm thiết để tự hỏi «dân tộc ở
đâu» mà để giới trẻ lúc bấy giờ phải «đập đầu vô đá»
thảm thương đến như thế[141]. Lúc bấy giờ, nhiều người
công giáo khác cũng đau xót tự hỏi Cộng Đồng Dân Chúa ở
đâu, sau khi HGPCGVN lấy lòng đạo đức kêu gọi hòa bình,
để cùng nhau phẫn nộ và vực dậy trong lòng dân tộc một
cơn phẫn nộ vĩ đại đưa đến một kế hoạch hành động qui mô
có sức áp lực các bên lâm chiến phải tôn trọng quyền
sống và quyền tự quyết của nhân dân MNVN.
Ngày 1 tháng Giêng 1966, 11 linh mục tu sĩ Việt Nam tại
Saigòn (Dòng Chúa Cứu Thế, Dòng Đa Minh Lyon, Dòng Phan
Sinh, và linh mục triều) đã lên tiếng kêu gọi hòa bình.
Ngày 29.05.1969, ba linh mục nổi tiếng của giáo phận
Saigòn, là linh mục giáo xứ các Thánh Tử Đạo VN Trần
Viết Thọ, linh mục tu sĩ Đa Minh Nguyễn Huy Lịch (cựu Bề
trên Dòng và đương kim Tuyên Úy Sinh viên Công giáo) và
linh mục tu sĩ DCCT Chân Tín (Chủ nhiệm nguyệt san Đức
Mẹ Hằng Cứu Giúp và nguyệt san Đối Diện sắp ra số 1.
tháng 7.1969) đã trả lời phỏng vấn của phái đoàn Hội
Đồng Thế Giới các Giáo Hội (Tin Lành) đang thăm dò tình
hình VN. Đại khái, các ngài đã cho biết dân chúng chán
ghét chiến tranh, lên án chiến tranh không những tàn sát
dã man nhiều người, hủy hoại tài sản của đồng bào mà còn
đem lại một niềm tuyệt vọng vô song nơi lòng người dân
Việt, nạn nhân của chiến tranh và không có tiếng nói nhỏ
nào trong một cuộc chiến tàn khốc do cường quốc Mỹ lãnh
đạo, v.v.[142]
Vâng, hàng giáo phẩm cao cấp có lên tiếng và một số linh
mục tu sĩ có lên tiếng, nhưng tiếng bom vẫn ngàn lần
mạnh hơn, át tiếng kêu gọi hòa bình của các Ngài. Xong
rồi thôi! Sau lời kêu gọi, không có hành động dấn thân
nào để thực hiện. Phong trào Công giáo Xây dựng Hòa bình
(gồm khoảng 50 tu sĩ, linh mục và giáo dân) thành lập
cuối năm 1970 cũng chỉ loay hoay với các cuộc hội họp,
hò hét, biểu tình vài lần đòi hòa bình, chống TT Nguyễn
Văn Thiệu độc diễn ứng cử, v.v. Rồi cũng đâu vào đấy…
Nói giả thiết, nếu có được một cuộc vận động mạnh mẽ
trên toàn cõi đất nước được các tôn giáo và quần chúng
ủng hộ hết mình để tạo ra một đội ngũ «tinh thần Ngô
Đình Diệm», tin vào sức tự cường của dân tộc mình, dám
đối thoại thẳng với Hà Nội, bước vào bàn thương thuyết,
chủ động đàm phán chấm dứt chiến tranh giữa người Việt
Nam với nhau, quyết tâm đeo đuổi một kế hoạch hòa bình
dài lâu, hiệp thương Nam Bắc, củng cố tình đoàn kết nhất
trí để không bị các cường quốc hiếp đáp, đe dọa, v.v.,
chắc tình thế đã có thể khác hơn những gì đã xảy ra với
Hiệp Định Paris do Mỹ chủ động. Bởi, lúc bấy giờ Hà Nội
cũng đã ngán ngẩm với lối đối xử cha chú của Bắc Kinh,
và lúc nào trong đầu người Việt Nam (cho dù là cộng sản)
cũng toan tính thoát khỏi sức áp đảo địa lý – chính trị
của Bắc phương. Nhưng khốn nạn là cả hai giới lãnh đạo
của hai bên vĩ tuyến không đủ can trường và lòng yêu
nước để chịu hợp tác với nhau, mà lại tin tưởng vào
ngoại bang hơn là vào dân mình. Các giáo hội, trong đó
có GHCGVN, không dấn thân đủ trên bình diện trần thế để
thổi vào đó một sinh lực mới, một nguồn sống mới, một
sức bật dậy của dân tộc…
Ngày nay, dưới sự thống trị của Đảng CSVN, các giáo hội
tại VN, trong đó phải kể đến Giáo Hội Công Giáo là một
giáo hội có lãnh đạo và có tinh thần vị tha, cũng không
có hành động nào đáng kể có thể làm bật dậy tiềm năng và
khí thế của dân tộc. Lòng tốt, thiện ý, đạo đức mà thôi
không đủ để thay đổi xã hội. Thư mục vụ 1992 xác nhận
rằng “Chúa đã phục vụ bằng một tình yêu vừa mạnh mẽ vừa
dịu dàng: Chúa tự đồng hóa với những người nhỏ bé, yếu
đuối, nhưng Chúa cũng không khoan nhượng với bất công,
bóc lột và bất bình đẳng; Chúa đã dùng lời nói và hành
động để tố cáo những tội ác chà đạp con người và xúc
phạm đến Thiên Chúa. Chỉ bằng con đường phục vụ như thế,
chúng ta mới có thể tuyên bố rằng Đức Kitô là câu trả
lời cho mọi ước vọng của loài người”. Đúng, nhưng liệu
lòng “ước vọng” của dân tộc VN có nghe được, hiểu được,
rung cảm được và tin tưởng được những “tình tự dân tộc”
nơi người công giáo và Giáo Hội công giáo hay không cái
đã? Như vậy, trước tiên, cần phải sống mãnh liệt và thực
hành Lời Chúa sâu sát hơn nữa để “ngôn ngữ kitô giáo” ăn
rễ sâu vào nền văn hóa dân tộc, để rồi sự hiệp thông và
cảm thông sâu sắc của người công giáo cũng là sự hiệp
thông và cảm thông của dân tộc Việt Nam, thì lúc bấy giờ
các thành phần dân tộc ta mới có thể đề huề tiến lên với
nhau được. Thực vậy, Đạo Chúa cũng cần thời gian để thấm
nhập vào lòng dân tộc vậy… Chính vì vậy mọi người tín
hữu cần phải có can đảm dấn thân hơn nữa từ ngày hôm nay
tại nơi nầy, sau khi đã để 30 năm trôi qua một cách
quá…âm thầm, chịu đựng tiêu cực. Từ nay, HGPCGVN cần
sống sát với người dân thấp cổ bé miệng hơn nữa, cảm
nhận được sâu xa nỗi lòng của họ -- cũng chính là nỗi
lòng thổn thức của Chúa Giêsu nơi người dân khốn đốn --,
và biết lựa lời và cách thế trình bày những nguyện vọng
của dân hợp với lòng dân mong muốn, đúng lúc đúng nơi
như đã có một số tín hữu tự động làm đây đó, thì mới
mong có một ngày nào đó dân chúng tin tưởng và cảm thông
tấm chân tình của HGPCGVN, và Giáo Hội mới mong hòa đồng
được với khí thế của dân tộc. Sức sống dân tộc sẽ hồi
sinh và sẽ tự mình đứng lên nắm lại quyền làm chủ đất
nước vậy…
4.5-- Cố gắng hết mình để sống Phúc Âm giữa lòng dân tộc
?
Trong huấn từ của Đức Gioan Phaolô II trong cuộc gặp gỡ
Hội đồng Giám mục Việt Nam (22.0l.2002) vào dịp các Ngài
về Tòa Thánh viếng mộ hai thánh Tông Đồ Phêrô và Phaolô,
các Giám mục VN được nghe nhắc nhở những điều mà trên
nguyên tắc các Ngài đã hiểu, đã biết, đã nói, mà ít khi
dám làm tới nơi. Đó là:
1-- Cần phải không ngừng ĐỐI THOẠI : « Để sứ vụ yêu
thương và phục vụ được vững bền, Giáo Hội Công giáo cũng
được mời gọi chia sẻ niềm hy vọng của mình, bằng cách
không ngừng đề nghị con đường đối thoại, vốn bắt nguồn
và kín múc sự phong phú trong cuộc đối thoại tình yêu
ban ơn cứu độ của Chúa Cha đối với nhân loại, qua Chúa
Con và trong sức mạnh của Chúa Thánh Linh. Chỉ có sự đối
thoại tin tưởng và xây dựng giữa tất cả các thành phần
trong xã hội dân sự mới giúp mang lại một niềm hy vọng
tươi sáng cho toàn thể dân tộc Việt Nam.» -- Chắc người
tín hữu cần phải ngồi lại với nhau để xem xét tại sao
GHCGVN chưa đối thoại đến nơi đến chốn với người anh em
cộng sản. Có thể vì người đối diện không chịu nghe, như
trường hợp ĐC Điền ở Huế là nơi mà óc địa phương và tinh
thần tự mãn truyền thống rất cao độ. Và có thể vì sợ
sệt, thiếu tin tưởng ở hiểu biết và thiện chí của người
đối diện. Và cũng có thể vì tự cho rằng mình không cần
phải tốn sức tốn công để đối thoại với cái thứ câm điếc
đui mù, đá cá lăn dưa, đầu trâu mặt ngựa này làm gì vô
ích! Đức Gioan Phaolô II là mẫu gương tuyệt vời của đối
thoại, hãy noi gương Ngài…
2-- Cần ĐỘC LẬP và biết HỢP TÁC: «Như Công Đồng Chung
Vaticanô II đã nhắc nhở chúng ta, "Giáo Hội, do trách vụ
và thẩm quyền của mình, không thể bị đồng hóa bất cứ
cách nào với cộng đồng chính trị và không bị ràng buộc
vào bất cứ một thể chế chính trị nào". Vì thế, "cộng
đồng chính trị và Giáo Hội độc lập với nhau và tự lập
trong lãnh vực riêng của mình". Tuy nhiên, vì cả hai đều
được mời gọi chu toàn sứ mạng đặc thù để cùng mưu ích
cho con người, nên việc phục vụ ấy càng hữu hiệu hơn,
nếu hai bên cộng tác một cách lành mạnh với nhau nhiều
hơn nữa” (Hiến chế Vui Mừng và Hy Vọng, số 76). (…) Để
thực hiện sự “sự cộng tác lành mạnh” ấy, Giáo Hội mong
đợi cộng đồng chính trị hoàn toàn tôn trọng sự độc lập
và tự lập của Giáo Hội.» -- Đã hẳn, Giáo Hội mong đợi là
một chuyện, nhưng nhà nước có đáp ứng sự mong đợi đó hay
không là một chuyện khác. Vì thế, có trường hợp phải
dùng đến phương thức đối lập để cộng tác, tuy khó hơn và
nguy hiểm hơn là hợp tác một chiều ! Theo Lm Hoàng Văn
Quý, Đức Gioan Phaolô II khi còn là Hồng Y Vojtyla đã
nói với ĐC Nguyên Văn Thuận năm 1974 rằng phải «cộng tác
và đề kháng», chớ không có cộng tác một chiều… Có điều
là đề kháng ở Ba Lan khác với đề kháng ở Việt Nam, vì
sức đề kháng ở Ba Lan ngang bằng với 95% dân Ba Lan là
công giáo và đã hòa nhập nhuần nhuyễn vào lịch sử hào
hùng và nền văn hóa truyền thống của dân Ba Lan. Ở Việt
Nam, cần phải đo lường sức đề kháng của “cái tách” đối
với “cái bàn” hay cái nhà…để có thể hành động có hiệu
quả.
3-- Quyền ĐÓNG GÓP phần đặc thù của mình : «Giáo Hội
không hề muốn thay thế các vị lãnh đạo quốc gia và hoạt
động của con người, cá nhân cũng như tập thể, Giáo Hội
chỉ mong ước được thi hành sứ mạng đặc thù của mình,
nhưng, qua các thành viên, trong tinh thần đối thoại và
cộng tác huynh đệ, Giáo Hội chỉ muốn đóng góp phần chính
đáng vào đời sống quốc gia, nhằm phục vụ toàn thể dân
tộc và tình đoàn kết trong xã hội.» -- Điều này, GHCGVN
đã có cố gắng làm, làm với những điều kiện bất định, bất
kham, bất khả lường trước… Nếu phải nói theo văn chương
Kiều, thì ta có thể hình dung rằng HGPCGVN đã bán mình
để chuộc Giáo Hội và chuộc Đấng Cứu Chuộc chúng ta nữa.
4- Tranh thủ quyền TỰ DO TÔN GIÁO : « Đối với các cá
nhân, tự do tôn giáo bảo đảm quyền tuyên xưng đạo và
thực hành đạo của mình mà không bị cưỡng bách, quyền
được giáo dục theo các nguyên tắc đức tin của mình,
quyền theo ơn gọi tu trì và thực hiện những hành vi, tư
cũng như công, nói lên quan hệ nội tâm nối kết con người
với Thiên Chúa và với anh chị em đồng bào và đồng loại.
Đối với các cộng đồng tôn giáo, tự do tôn giáo bảo đảm
các quyền cơ bản như: tự quản, cử hành việc phụng tự
công cộng mà không bị hạn chế, giảng dạy công khai đức
tin của mình và làm chứng về đức tin bằng lời nói cũng
như bằng chữ viết, nâng đỡ các thành viên của mình trong
việc hành đạo, chọn lựa, huấn luyện, bổ nhiệm và thuyên
chuyển các thừa tác viên của mình, biểu lộ sức mạnh đặc
biệt của Giáo Huấn xã hội của Hội Thánh, cổ võ các sáng
kiến trong lãnh vực giáo dục, văn hóa, bác ái và xã hội
(xem Tuyên ngôn về Tự Do Tôn giáo, số 4). » -- Khi nghe
lời giáo huấn này của vị Cha Chung, chắc các Giám mục VN
bùi ngùi cảm tạ Chúa rằng cho đến nay Chúa đã cho dân
tộc và Giáo Hội VN được hưởng chút chút tự do bằng “cái
tách” trên bàn rồi, xin làm phép cho nó nới rộng ra thêm
chút chút nữa cho chúng con đỡ khổ. Tại sao bắt Chúa
phải “làm phép”, mà Cộng Đồng Dân Chúa không lấy Đức Tin
ra để làm phép, dời được cả sông núi kia mà? Không ai
ban cho tự do được, tự do phải phấn đấu can trường để
có. Vâng, đứng ngoài nói thì dễ, nhào vô thử cái chơi bà
con ơi! Xin hãy tin tưởng và nâng đỡ HGPCGVN trong giai
đoạn cực kỳ khó khăn này, thì quí hơn là lên mặt dạy đời
các Ngài…
5-- Xây dựng một nền VĂN MINH TÌNH THƯƠNG: « Tôi tha
thiết cầu mong tất cả các phần tử của quốc gia đoàn kết
với nhau để cổ võ một nền văn minh tình thương, dựa trên
các giá trị phổ quát hòa bình, công lý, liên đới và tự
do.»
Lạm bàn: Nhiều người công giáo ngoài nước không khỏi
khấp khởi vui mừng khi nghe được những lời giáo huấn
đanh thép nói trên từ cửa miệng Người Cha Chung đáng
kính Gioan Phaolô II. Thực ra, không dễ gì thực hiện
những điều này một sớm một chiều. Những lời này không
chỉ là lời nói, mà chính là kinh nghiệm xương máu của
Ngài, của dân tộc Ba Lan của Ngài, của một quá trình
«hòa nhập văn hóa» dài lâu của Giáo hội Ba Lan. Thực
vậy, văn hóa Ba lan đã được phúc âm hóa đến độ những lời
Ngài nói ra làm rúng động đến từng thớ thịt của người
con dân Ba Lan. Khi Ngài trở về thăm Ba Lan năm 1979,
chưa đầy một năm lên ngôi Giáo Hoàng, lời kêu gọi «Đừng
sợ» của Ngài không những là một mệnh lệnh của Đức Kitô
mà thôi, mà là một tiếng pháo lệnh của một con dân Ba
Lan gây ra một tiếng dội vang vang từ hồn thiêng sông
núi của một Dân tộc Ba Lan hào hùng vọng về, quyện vào
nhà nhà, phố phố, làng xã, quê hương, mạnh đến nỗi làm
điên đảo rối loạn tâm thần nhà cầm quyền cộng sản Ba
Lan...
Ngài không những nói, mà còn làm theo điều mình nói. Xin
nhận biết và noi gương cách hành động của Ngài: Ngài đến
thẳng với nhà lãnh đạo cộng sản Ba Lan và đối thoại như
một con dân Ba Lan có quyền ăn nói trong vấn đề đất
nước. Ngài kính trọng sâu xa người đối diện, tin tưởng
mãnh liệt nơi con người Ba Lan trước mặt và khơi dậy
lòng yêu nước chân chính và lòng thiện nơi họ. Nhà văn
nhà báo Đỗ Quý Toàn, trong bài xã luận “Hãy kính trọng
người khác”[143] mời độc giả của ông hãy theo cách nhìn
của hai nhà văn Ba Lan Stéfan Chwin và Henryk
Wozniakowski để nhìn Đức Gioan Phaolô II “trước hết như
một con người bình thường luôn luôn vươn tới điều thiện
và từ đó khơi dậy được tấm lòng thiện nơi người khác, kể
cả những người không cùng tôn giáo. Ngài chứng minh rằng
chỉ tấm lòng thiện mới tạo ra được lòng thiện nơi mọi
người khác.” Lòng thiện của Ngài không chỉ là đạo đức
suông, mà là hành động trong sự kính trọng kẻ khác và
dấn thân hết mình.
Ngay sau Công Đồng Vatican II, Đức Phaolô VI lập Hội
đồng Công Lý và Hòa bình để tranh thủ cho một nền «hòa
bình công chính» cho thế giới, thì tiếp theo đến lượt
Đức Gioan Phaolô II thành lập Hội Đồng Văn Hóa năm 1982
để cổ võ cho việc rao giảng Phúc Âm bằng đường hướng
«hòa nhập văn hóa». Không có «hòa nhập văn hóa», Đạo
Chúa có thể biến dạng thành một mớ ý thức hệ triết lý,
thần học, luân lý, chính trị, v.v. hoặc một nghi lễ đầy
ắp những tâm tình sùng đạo cao siêu vi vút đến tận trời
xanh… Có hòa nhập văn hóa, người công giáo và người Việt
Nam dễ gần gũi và dễ tin tưởng nhau hơn, tin nhau trước
tiên là người Việt Nam và hơn nữa tin nhau là con người
và cùng có sứ mạng làm người như nhau.
Trước khi dừng bút, người viết xin lập lại lời giáo huấn
của Đức Tổng Giám mục Nguyễn Văn Bình trong Thư luân lưu
ngày 12.06.75: « «Đối với chính quyền. ‘Cộng đồng chính
trị và công quyền xây nền tảng trên bản tính con người,
nên cũng nằm trong trật tự do Thiên Chúa an bài’ (Hiến
chế Vui mừng và Hy vọng, số 74). Vì thế, Giáo hội dạy ta
phải công nhận và phục tùng Chính quyền, góp phần hợp
tác với Chính quyền trong việc mưu cầu hạnh phúc cho
toàn dân. (…) ‘Mọi quyền bính hiện hữu đều do Thiên Chúa
thiết lập. Ai chống lại quyền bính là chống lại trật tự
do Chúa đặt ra’ (Rom 13, 1-2), khi những chính quyền đó
mưu cầu lợi ích cho nhân dân, phản ánh nhu cầu và nguyện
vọng chính đáng của nhân dân. (….) ‘Tuy nhiên, khi công
quyền vượt quá giới hạn của mình mà đàn áp nhân dân thì
chính nhân dân cũng không nên từ chối thi hành những gì
khách quan xét thấy phù hợp với đòi hỏi của công ích.
Nhưng nhân dân được phép bênh vực quyền lợi của mình
cũng như của đồng bào, chống lại những lạm dụng của công
quyền.’ (Hiến chế Vui mừng và Hy vọng, số 74). » --
Xin để mỗi người tự xét lấy xem, trong hoàn cảnh cụ thể
của Đất Nước, thế nào là hành động phù hợp với đòi hỏi
của công ích trong trường hợp có sự lạm dụng của công
quyền. Và thế nào là lạm dụng của công quyền để phải ra
tay hành động phù hợp với đòi hỏi của công ích. Nhưng
trên tất cả, thử hỏi xem lòng thiện, tình yêu, bác ái,
thứ tha, hòa giải, hòa hợp, có “nằm trong trật tự do
Thiên Chúa an bài” hay không…
Riêng người viết, vào khoảng năm 1978 hay 79 gì đó, có
dịp đi nghỉ ở Bãi Dâu (Vũng Tàu) và dự lễ chủ nhật tại
đó. Điều ngỡ ngàng vô cùng là nghe được một câu kinh đã
từng nghe đọc từ nhỏ vào những năm 1939-40 ở một nhà thờ
Phan Thiết với cái giọng ngân nga đặc sệt Miền Nam: «Xin
Chúa lòng lành phù hộ cho nhà nước chúng tôi cùng các
văn võ quần thần, nhất là quan nhậm xứ này, thảy đều
được nhìn biết Chúa cho ngày sau được rỗi linh hồn.»
Không biết có ông cán bộ cộng sản nào đâu đó hay công an
khu vực có nghe được câu kinh này bao giờ chưa và nếu có
nghe thì hiểu như thế nào và có thấy chướng tai hay
không! Chứ riêng người viết thì rất ái ngại phải dâng
một lời kinh tự nguyện tương tự, vào lúc có Lời nguyện
giáo dân trong thánh lễ trong một dịp cấm phòng với bà
con công giáo ở đây năm nào (và chỉ có lần đó thôi trong
hơn hai chục năm ở xứ người), trong lúc vừa nắm chặt cả
hai nắm tay vừa run run mở miệng : Xin Chúa lòng lành
phù hộ cho nhà nước Việt Nam chúng con hiện nay, v.v.
Người đứng bên cạnh chắc nghĩ trong bụng rằng người dâng
lời nguyện này phải là một người cộng sản thứ thiệt mới
cầu nguyện cho nhà nước cộng sản. Người ấy nghĩ theo một
thứ phản xạ “chống cộng” mà quên bẵng đi rằng nếu đã là
cộng sản thứ thiệt thì chắc cũng phải trải qua biết bao
nhiêu truông mới biết dâng lời nguyện như thế, và nếu đã
được lệnh “nằm vùng” thì tại sao dại dột trồi đầu ra làm
gì?
Có điều đáng mừng là từ năm 1991 là năm Đức Giám mục
Xuân Lộc Nguyễn Minh Nhật làm chủ tịch HĐGMVN trở đi,
các Giám mục bằng nhiều dịp và nhiều lời lẽ khác nhau đã
nói lên được phần nào một vài ưu tư của người công giáo
và con dân VN trước một số yêu cầu chính đáng để được
sống làm người và làm người tự do.[144]
[1] Xem Thư luân lưu 1980, Hàng Giáo Phẩm Công giáo Việt
Nam 1960-1995, Đắc Lộ Tùng Thư, Paris, 1996, tr. 277. Từ
đây, trong các ghi chú, quyển sách này sẽ được viết tắt
là HGPCGVN. NB: Thư luân lưu, còn gọi là Thư chung hay
Thư mục vụ là văn kiện quan trọng cần phải đọc trong tất
cả các nhà thờ trong giáo phận, để hướng dẫn việc giữ
đạo và sống đạo đúng theo huấn dụ của Giáo Hội. Ở đây,
cụm từ «giai đoạn mới này của Dân tộc» muốn nói giai
đoạn kể từ năm 1975 trở đi, tức dưới chế độ Cộng Hòa
XHCN VN.
[2] Xem HGPCGVN, Thư luân lưu 1980, tr. 278.
[3] Xem HGPCGVN, Thư luân lưu 1980, tr. 279-280. NB :
chữ viết tắt MV, 43 là Hiến Chế Mục Vụ về Giáo Hội trong
thế giới ngày nay «Vui Mừng và Hy Vọng» (Gaudium et
Spes) số 43.
[4] Xem Hiến chế Mục vụ về Giáo hội trong thế giới ngày
nay (Gaudium et Spes) số 53, 57, 58.
[5] Xem Sắc lệnh về hoạt động truyền giáo của Giáo hội
(Ad Gentes), số 10, 11, 12, 15. Cũng xem Tông huấn của
Đức Phaolô VI về việc «Loan báo Tin Mừng» (Evangelii
Nuntiandi), số 20.
[6] Xem Hiến chế tín lý về Giáo hội (Lumen Gentium) số
17, 40; và Hiến chế mục vụ Vui mừng và Hy vọng (Gaudium
et Spes) số 44.
[7] Xem HY Paul Poupard, L’Église au défi des
cultures—Inculturation et Évangélisation, 1989, Desclée,
bìa lưng, và Lời nói đầu tr. 5-6. NB: Theo Encyclopaedia
Universalis 1998, từ «inculturation» xuất hiện trong
ngôn từ của khoa truyền giáo học kytô-giáo vào khoảng
năm 1975, và đến năm 1977 thì thấy xuất hiện trong các
văn kiện chính thức của Giáo Hội Công Giáo.
[8] HGPCGVN, Thư luân lưu 1980, tr. 279.
[9] Xem HY Paul Poupard, 1989, tr. 11-12, v.v. Xem Mt,
Bài giảng trên núi, đoạn 5, 6, và 7.
[10] HGPCGVN, Thư luân lưu 1980, tr. 287.
[11] Sau 1975, danh xưng «Hội Đồng Giám Mục Việt Nam»
được dùng lần đầu tiên năm 1980 như một danh xưng chính
thức của cơ cấu lãnh đạo cao nhất của Giáo Hội Công Giáo
Việt Nam, (ngầm hiểu là được Chính phủ nhìn nhận), qui
tụ tất cả 33 GMVN trong nam và ngoài bắc và đại diện cho
toàn thể Dân Chúa tại VN. Nhờ Thư luân lưu của HĐGMVN
ngày 01.05.1980, chúng ta được biết rằng «Chúng tôi (các
GM) đã duyệt lại nội qui và đặt lại cơ cấu của Hội Đồng
Giám Mục Việt Nam (cũ)», và «thành lập Hội Đồng Giám Mục
Việt Nam (mới) để phục vụ anh em đắc lực hơn». HGPCGVN,
Thư luân lưu 1980, tr. 276 và 277.
[12] HGPCGVN, Thư luân lưu 1980, trong phần Đường hướng
mục vụ, mục B- Một Hội thánh trong lòng dân tộc, tr.280.
[13] Chiến tranh chấm dứt năm 1975, nhưng mãi đến 1980,
tức 5 năm sau, 33 Giám mục VN trên toàn quốc mới được
phép tề tựu về thủ đô họp Đại hội Giám mục Toàn quốc (và
thành lập HĐGMVN, như nói ở ghi chú 11), theo như điều
«ước mong» của các Ngài và của Tòa Thánh. «Vì thế chúng
ta thành thật biết ơn Chính phủ đã giúp đỡ và tạo điều
kiện thuận lợi cho Đại hội này», và «Trước khi bế mạc
Đại hội, chúng tôi đã vào lăng kính viếng Chủ tịch Hồ
Chí Minh, và đã đến yết kiến Thủ tướng Chính phủ ».
HGPCGVN, Thư luân lưu 1980, tr. 275 và 276.
[14] «Văn hóa» được hiểu theo nghĩa mà Đức Gioan Phaolô
II đã long trọng tuyên bố trước Đại hội đồng Tổ chức
UNESCO của Liên Hiệp Quốc: «Văn hóa là biểu hiện của con
nguời,… là sự xác lập hình hài của nhân loại » (« La
culture est l’expression de l’homme,… la confirmation de
l’humanité »), trích bài thuyết trình của Đức GP II do
R. Joly, Inculturation et vie de foi : Spiritus 98,
Février 1985, Paris, 3.32.
[15] HGPCGVN, Thư luân lưu 1980, tr. 281. NB : chữ viết
tắt MV 40,2 trong ngoặc đơn sau đoạn trích, là Hiến Chế
Mục Vụ về Giáo Hội trong thế giới ngày nay «Vui Mừng và
Hy Vọng» (Gaudium et Spes) số 40, đoạn 2.
[16] «Hòa nhập văn hóa» (inculturation) nôm na có nghĩa
là người tín hữu sống Lời Chúa chân thành trong nếp sống
«văn hóa» dân tộc mình, tức là chấp nhận sống Đức Tin
triệt để với thân phận dân tộc mình như chính Chúa đã
chấp nhận sống triệt để thân phận làm người với dân
Israel. Đó là cách duy nhất biểu lộ nếp sống trọn tình
nghĩa với anh em đồng bào và với Chúa, và cũng là cách
rao giảng về Chúa cho đồng bào mình, nghĩa là «phúc âm
hóa» từ bên trong nền văn hóa bản địa mình.
[17] HGPCGVN, Thư luân lưu 1980, tr. 281-282, Sắc lệnh
về hoạt động truyền giáo của Giáo hội (Ad Gentes), số
15. Viết tắt : TĐ. 15.
[18] HGPCGVN, Thư luân lưu 1980, tr. 285 và 286.
[19] Xem Việt Nam Giáo Sử của Phan Phát Huồn, Quyển I,
in lần 2, 1966, tr. 464-467.
[20] Xem Nguyễn Trường Tộ với vấn đề canh tân đất nước,
do Viện Khoa Học Xã Hội - Trung Tâm Nghiên Cứu Hán Nôm,
Đà Nẵng 2000 ; Nguyễn Trường Tộ, Thời thế và tư duy cách
tân, của Hoàng Thanh Đạm, Tp HCM 2001 ; Nguyễn Trường
Tộ, con người và di thảo, củaTrương Bá Cần, Tp HCM 1988.
[21] Xem Phan Phát Huồn, sđd, tr. 448.
[22] Xem Phan Phát Huồn, sđd, tr. 522-523.
[23] Lời giới thiệu, tr. 11 trong Trương Vĩnh Ký, bi
kịch muôn đời của Hoàng Lại Giang, NXB Văn hóa và thông
tin, Tp HCM 2001.
[24] Xin xem đoạn «Một chút lịch sử cộng tác», trong
«Phải chăng Công Giáo Việt Nam có truyền thống cộng tác
với quyền hành? » của Mặc Giao trong Tuyển Tập này.
[25] HGPCGVN tr. 91-92. NB: Về chi tiết của hai điện văn
và ngày tháng ký gởi đi, xin xem Dieu et César của Trần
Tam Tỉnh, Sudestasie 1978, tr. 55 và 57.
[26] Nguyễn Mạnh Hà đã tham gia chính phủ liên hiệp đầu
tiên của Việt Minh với chức Bộ trưởng Thanh niên từ năm
1945 sang năm 1946.
[27] HGPCGVN tr. 93-95. Xem tiếp: bản tiếng Pháp trong
Etudes Vietnamiennes No 53, 1978, p. 235.
[28] «Việc người Pháp làm ở Đông Dương, có nhiều lỗi
lầm, ngay từ lúc đầu không chịu thay đổi cái thái độ với
người Việt Nam, cứ tưởng lấy võ lực mà đàn áp và dùng
quyền mưu mà lừa dối để đem người ta vào chòng, như ý
mình muốn, không biết rằng lòng người đã thay đổi, nhân
trí đã biến thiên, không thể lấy thế lực mà bắt người ta
đi lại con đường cũ được.» Trần Trọng Kim, Một cơn gió
bụi, Vĩnh Sơn, 1969, tr. 187. Cuộc chiến tranh tái chinh
phục Đông Dương (vàViệt Nam) của đế quốc thực dân Pháp
vô cùng tàn ác, không ai có thể lấy lý do gì mà biện
minh được. Hãy nghe một binh sĩ Pháp, Albert Clavier,
làm chứng về sự dã man của quân đội Pháp mà người VN nào
lúc bấy giờ cũng biết: «Tôi đi hành quân ở Lộc Bình, một
thị trấn nhỏ cách Lạng Sơn khoảng 30km. Khi đến chợ Lộc
Bình, tôi thấy gì? Bốn cái đầu bị chặt cắm dựng đứng
trên đầu ngọn tre với tấm bảng kể tội: «Việt Minh»… »,
trích bài «J’ai choisi le Việt Minh », Claude Collin ghi
lại vào tháng 10.2003, đăng trong tập san «Guerres
mondiales et conflits contemporains» Số 216/2004, tr.
73.
[29] Trần Ngọc Báu dịch từ bản tiếng Pháp «Lettre
commune des ordinaires réunis à Hanoi», trong phần Phụ
Lục của Con đường đối thoại của các GMVN do Gs Đỗ Mạnh
Tri viết. Đoạn này thiếu trong bản dịch tiếng Việt của
Thư chung 1951 trong HGPCGVN.
[30] Đức Thánh Cha Piô thứ 12 đương nhiệm, một vị giáo
hoàng đã rất từng trãi về các vấn đề chính trị thế giới
và nắm vững tình hình của Liên Xô từ cuộc Cách Mạng
tháng mười năm 1917 đến về sau.
[31] HGPCGVN, Thư chung các Giám mục Đông Dương 1951,
tr. 93. NB: Lm Trần Tam Tỉnh cho rằng hàng Giám Mục lúc
bấy giờ bị áp lực mạnh mẽ của Tướng Delattre de Tassigny
để ra Thư chung này. Xem Dieu et César, sudestasie 1978,
tr. 85.
[32] GM Nguyễn Bá Tòng và GM Hồ Ngọc Cẩn đã qua đời.
[33] Cụ Trần Trọng Kim, một bậc thâm nho khả kính, không
đảng phái, và là người lập chính phủ VN đầu tiên dưới
thời Vua Bảo Đại vào tháng 3.1945 đã viết: «Về phương
diện chính trị của người Việt Nam thì chính phủ Việt
Minh đã thất sách từ lúc đầu, chưa gì đã đem áp dụng cái
chủ nghĩa cộng sản một cách đường đột quá, làm dân tình
ta thán… » Và «Đảng Cộng sản có cái tính tôn giáo, phải
mê và tin, tin là chỉ có mình là phải, còn người ta là
sai lầm hết… » Sđd, tr. 188 và 189.
[34] HGPCGVN, Thư chung các Đức Giám Mục Việt Nam
(1952), tr. 100.
[35] HGPCGVN, Thư chung 1952, tr. 109.
[36] Xem HGPCGVN, Thư chung 1952, tr. 109-114.
[37] Xem HGPCGVN, Thư chung 1953, tr. 119-123.
[38] Xem Giám Mục Lê Hữu Từ & Phát-Diệm, 1945-1954,
những năm tranh đấu hào hùng, của Đoàn Độc Thư và Xuân
Huy, Sử Liệu Hiện Đại, 1973.
[39] HGPCGVN, tr.20.
[40] Xem HGPCGVN, tr.139-144.
[41] HGPCGVN, tr. 126.
[42] HGPCGVN, tr. 126.
[43] Xem HGPCGVN, tr. 127.
[44] HGPCGVN, tr. 128.
[45] HGPCGVN, tr. 130.
[46] HGPCGVN, tr. 131.
[47] HGPCGVN, tr. 133.
[48] Xem HGPCGVN, tr. 133-135.
[49] HGPCGVN, tr. 151.
[50] Xem HGPCGVN, tr. 151-154.
[51] HGPCGVN, tr. 155.
[52] HGPCGVN, tr. 163 và 164.
[53] Các giám mục ám chỉ phong trào đấu tranh của Phật
Giáo chống chính phủ Diệm, lật đổ chính phủ này và giết
chết hai anh em người công giáo họ Ngô, gây nên hiềm
khích và xung đột giữa CG và PG…Bấy giờ, người CG sợ bị
trả thù, sống với «tinh thần sợ sệt, chia rẽ và tương
tranh»…
[54] Xem HGPCGVN, tr. 164-165 và 165-168.
[55] Xem HGPCGVN, tr. 168-170.
[56] Xem HGPCGVN, tr. 171-178. Lời khuyên «Chúng con
đừng sợ» làm cho người tín hữu ngày nay liên tưởng đến
lời khẳng định của Đức JP2 «chúng con đừng sợ» hơn 23
năm sau đó. Một đàng là một giáo hội địa phương (Việt
Nam) đang bị dư luận lúc bấy giờ bôi bác và trấn áp, và
đàng khác là một giáo hội hoàn vũ đang bị đe dọa bởi nạn
công sản toàn trị, đang khi cả đôi bên đều có một quá
khứ không hoàn toàn tinh tuyền, đưa đến những sự chống
đối, hiềm khích này khác. Bởi đó, đúng theo tinh thần
Công Đồng Vatican II, Đức JP2 và các GMVN đều kêu gọi
sám hối, nhưng không để cho «mặc cảm tội lỗi» dày vò,
trái lại sám hối để sống trung thực Lời Chúa hơn…
[57] HGPCGVN, Thông cáo HĐGMVN 1966, tr. 186. NB: Chủ
trương hòa bình và chống chiến tranh đã có từ Công Đồng
Vatican II trở về sau, bắt đầu còn tế nhị với Phaolô VI
và thẳng thừng với Gioan Phaolô II.
[58] Theo báo Express số 854, tháng 10-11/1967, trong
vùng do chính phủ Việt Nam Cộng Hòa kiểm soát, số thường
dân bị thương vong hàng năm là từ 100 ngàn tới 150 ngàn
người, trong đó số người chết tối thiểu là 25% (trích
dẫn bản điều tra của Ủy ban Thượng viện Mỹ do Ted
Kennedy chủ trì).
[59] .HGPCGVN, Thông cáo HĐGMVN 1966, tr. 185
[60] HGPCGVN, Thông cáo HĐGMVN 1966, tr. 184. Người viết
bài này xin làm chứng cho những điều nói về Đức Phaolô
VI trong các phần trích dẫn trên đây là hoàn toàn đúng,
bởi vì người viết đã được gặp riêng Ngài trong nửa tiếng
đồng hồ tại Castelgandolfo vào ngày 01.08.1966 và được
hiểu lòng Ngài vô cùng yêu thuơng dân tộc Việt Nam. Hai
cha con đã ngậm ngùi to nhỏ về những đau khổ vô vàn do
chiến tranh gây nên cho người dân Việt và khóc thương
cho thân phận dân tộc VN. Ngài nói hằng ngày Ngài luôn
nhớ đến VN, cầu nguyện cho VN, cũng như dùng tất cả mọi
phương tiện và cơ hội để vận động cho hòa bình VN. Xin
xác nhận rằng tại Tòa Thánh vẫn không có một sư đoàn
nào, và cũng không chứa chấp một ổ tình báo Mỹ nào, mà
chỉ có tình người được nung nấu bởi Tình Chúa mà thôi.
[61] HGPCGVN, Thông cáo HĐGMVN 1966, tr. 186-187.
[62] HGPCGVN, Thông cáo HĐGMVN 1966, tr. 188.
[63] Đức Phaolô VI là nhà vô địch đấu tranh kiên trì cho
Hòa bình, đã thành lập Ngày Hoà Bình Thế Giới được mừng
mỗi năm vào ngày đầu năm kể từ 1968. Tất cả giáo huấn về
vấn đề Hòa bình đã được gom lại trong quyển «L’Église et
la paix, Vingt-cinq ans de messages pontificaux pour la
paix», Centurion 1993.
--Trong bài diễn văn khai mạc Thượng Hội Đồng Giám Mục
Thế giới ngày 29.09.1967, Đức Phaolô VI đã «lên tiếng
kêu gọi thương thuyết và hòa bình tại Việt Nam và Trung
Đông. Chiến cuộc ở Việt Nam (…) luôn ám ảnh Đức Thánh
Cha. Lời kêu gọi (…) của Ngài (…) vừa là để cảnh tỉnh
các nhà lãnh đạo các quốc gia, vừa là để thúc giục hàng
giám mục hoạt động tích cực hơn, ngõ hầu chóng tiến tới
cuộc thương thuyết hòa bình ở Việt Nam… » Bài Thương
thuyết và hòa bình, Chân Tín, tháng 11/1967, trong Luồng
gió mới, Tin Paris 2000, tr. 209.
[64] HGPCGVN, Thông cáo HĐGMVN 1968, tr. 194.
[65] HGPCGVN, Thông cáo HĐGMVN 1968, tr. 191.
[66] Xem HGPCGVN, Thông cáo HĐGMVN 1968, tr. 191-193.
[67] Gs Lý Chánh Trung, trong bài «Tại sao tôi muốn hòa
bình?» đọc tại Trụ sở Tổng hội Sinh viên Saigon ngày
08.09.1968 đã nói : Tôi muốn hòa bình, trước hết, vì tôi
là người Việt Nam, vì tôi là một nhà giáo, và sau cùng
vì tôi là người công giáo. Xin xem Đối diện với chiến
tranh, Lý Chánh Trung, NXB Trẻ, 2000, tr.24.
[68] Thư luân lưu xây dựng hòa bình 1969 có trích dẫn:
Diễn văn Đức Thánh Cha PhaolôVI BCM tr.708; Hiến chế Vui
mừng và Hy vọng, số 16, 27, 34, 51, 67; Sắc lệnh Phát
triển các Dân tộc, số 34 và 35; Sách Sáng Thế Ký. Xin
xem HGPCGVN, các ghi chú từ số 1 dến số 10, tr. 210.
[69] HGPCGVN, Thư luân lưu xây dựng hòa bình 1969, tr.
203-204.
[70] HGPCGVN, Thư luân lưu xây dựng hòa bình 1969, tr.
204-205.
[71] HGPCGVN, Thư luân lưu xây dựng hòa bình 1969, tr.
208.
[72] HGPCGVN, Thư luân lưu xây dựng hòa bình 1969, tr.
208-209.
[73] HGPCGVN, Thư luân lưu xây dựng hòa bình 1969, tr.
223.
[74] HGPCGVN, Thư mục vụ 1973, tr. 227.
[75] HGPCGVN, Thư mục vụ 1973, tr. 227-228.
[76] HGPCGVN, Thư mục vụ 1973, tr. 229.
[77] HGPCGVN, Thư mục vụ 1973, tr. 230-231.
[78] Xem HGPCGVN, Thư mục vụ 1973, tr. 231-234..
[79] HGPCGVN, Thư mục vụ 1973, tr. 235-236.
[80] HGPCGVN, Thư luân lưu 1969, tr. 209.
[81] HGPCGVN, Tuyên Ngôn 10.01.74, 237-240.
[82] HGPCGVN, Thông cáo HĐGMVN, Năm Thánh, tr. 250.
[83] Báo Thông tin Công giáo Quốc tế (Information
Catholique Internationale, ICI) số 479 ngày 2.5.75 tr.
7. Trần Ngọc báu chuyển ngữ.
[84] Xem ghi chú số 83. Trần Ngọc Báu chuyển ngữ.
[85] Xem ghi chú số 83. Trần Ngọc Báu chuyển ngữ.
[86] Tin Nhà, Số đặc biệt 15, tháng 3-1994, Phụ lục 2,
tr. 28.
[87] Trích tài liệu in ronéo trên bốn mặt của hai tờ
giấy rời, dùng làm truyền đơn trao tay cho nhau. Có thêm
ghi chú: Danh sách này còn tiếp tục, xin liên lạc với
bất kỳ người nào có tên trong danh sách này để hưởng ứng
ký tên tiếp theo trước ngày 27.04.1975.
[88] Tin Nhà, Số đặc biệt 15, tháng 3-1994, Phụ lục 1,
tr. 27.
[89] Xem Đỗ Mạnh Tri, «1975-2005, Con đường đối thoại
của các Giám mục VN», phần 1.1, trong sách này.
[90] Tin Nhà, Số đặc biệt 15, tháng 3-1994, Phụ lục 3,
tr. 29.
[91] Công Giáo và Dân Tộc, Số đặc biệt (từ số 559 đến
562) tháng 4.1986, tr. 20.
[92] Danh xưng «chúng tôi» ở đây gồm có Đức TGM Nguyễn
Văn Bình và Đức TGM phó với quyền kế vị Nguyễn Văn Thuận
(được bổ nhiệm vào ngày 25.04.1975 và chính thức thông
báo ngày 12.05.1975).
[93] Có xảy ra những hoạt động mờ ám trong nội bộ công
giáo, chẳng hạn như nhóm cấp tiến lên án số tín hữu CG
theo truyền thống giáo hội là «phản động»; nên nhớ,
trong chế độ cộng sản, phản động là một tội rất nặng
dùng để gán cho những ai mà đảng CS muốn loại trừ hay
tiêu diệt. Ngày 13.05.75, một nhóm «sinh viên CG» xâm
nhập Tòa TGM và đòi Đức TGM phó Nguyễn Văn Thuận phải từ
chức, rút lui. Các LM cấp tiến cũng bài bác việc Tòa
thánh bổ nhiệm Ngài làm TGM phó với quyền kế vị, và Đức
Cha Bình đã có thư can thiệp để bênh vực ĐC Thuận đối
với họ và đối với Chính quyền Cách mạng. Cũng nên nhớ,
ngày 14.05.75 có một nhóm «thanh niên CG» đột nhập vào
Tòa Khâm Sứ, biểu tình «đuổi xô» trái phép Đức Khâm Sứ
Tòa thánh Henri Lemaitre. Chắc chắn, ai cũng thấy là có
bàn tay «bạo lực cách mạng» nhúng vào những vụ này.
[94] Xem trong sách này: Đỗ Mạnh Tri, «1975-2005, Con
đường đối thoại của các Giám mục VN», mục 4.3 Tòa Tổng
giám mục Hà Nội, đoạn viết về ĐC Bình. NB: Người viết
không có Thư chung này của Đức Tổng Bình, nên mượn tạm
đoạn này của Gs Đỗ Mạnh Tri.
[95] Lm Huỳnh Công Minh, người gốc Củ Chi, sau khi học
xong Tiểu Chủng viện Sàigòn thì được ĐC Bình gởi đi du
học về môn thần học ở Đại học Strasbourg (Pháp). Sau khi
chịu chức, Lm Minh đã ở nán lại Paris làm việc với Lm
Nguyễn Đình Thi trong vòng 3 năm và được ĐC Bình gọi về
vào cuối năm 1970. Từ đó, Lm Minh tỏ ra khá gắn bó với
ĐC Bình, nhất là từ sau 30.04.75. Cả hai vị là người rặc
Miền Nam, có cái nhìn về đất nước và những quan điểm
thần học khá giống nhau.
[96] Báo cáo chính trị của Lê Duẩn nói: Chủ nghĩa xã hội
đã làm cho «mọi người đoàn kết, thương yêu nhau một cách
chân thành và thắm thiết». Và «tiến hành ba cuộc cách
mạng, xây dựng chế độ mới, nền kinh tế mới, nền văn hóa
mới phải xuất phát từ yêu cầu xây dựng con người mới,
phải nhắm bảo đảm những điều kiện cần thiết để đẩy mạnh
việc xây dựng con người mới». (Báo cáo chính tri…, NXB
Sự Thật, Hà Nội, 1977, tr. 41 và tr. 66). NB: Xin xem vụ
Vinh Sơn 1976 trong bài này, đoạn 3.2.5.
[97] Công Giáo và Dân Tộc, Số đặc biệt (từ số 559 đến
562) tháng 4. 1986, tr. 22.
[98] « Bài phát biểu » trong Công Giáo và Dân Tộc, Số
đặc biệt (từ số 559 đến 562) tháng 4. 1986, tr. 23.
[99] Công Giáo và Dân Tộc, Số đặc biệt (từ số 559 đến
562) tháng 4.1986, tr. 24.
[100] Công Giáo và Dân Tộc, Số đặc biệt (từ số 559 đến
562) tháng 4.1986, tr. 27
[101] Công Giáo và Dân Tộc, Số đặc biệt (từ số 559 đến
562) tháng 4.1986, tr. 24, 25, và 54.
[102] Người cộng sản nói theo tục ngữ VN là «ngồi mát ăn
bát vàng».
[103] Sau 30 năm nhìn lại, ta thấy những lời tâm huyết
của ĐC Bình đã thấm vào đâu chưa? Các linh mục ngày nay
đã hết «ăn trên ngồi trốc» chưa, và các tu sĩ đã hết
«tham sân si» chưa? Lỗi tại người linh mục tu sĩ của
Chúa chưa tu tới, hay lỗi tại cộng sản hoặc người chống
cộng là những kẻ chỉ muốn dùng họ bằng cách tâng bốc họ,
o bế họ, đề cao họ để họ đứng về phe mình?
[104] Vũ-Sinh-Hiên, Giáo hội công giáo tại Tp
Hồ-Chí-Minh 1990, Số đặc biệt Tin Nhà 15, tháng 3.1994,
tr. 21. Ghi chú : đúng ra phải là ngày 14.02.1976, theo
Công Giáo và Dân Tộc, Số đặc biệt (từ số 559 đến 562)
tháng 4. 1986, tr. 26. Còn vụ Lm Vàng xảy ra vào năm
1978, chứ không phải 1979-1980.
[105] Dĩ nhiên, đây là trách nhiệm luân lý của người
lãnh đạo tinh thần, chứ không phải là trách nhiệm pháp
lý!
[106] Công Giáo và Dân Tộc, Số đặc biệt (từ số 559 đến
562) tháng 4. 1986, tr. 29.
[107] Công Giáo và Dân Tộc, Số đặc biệt (từ số 559 đến
562) tháng 4. 1986, tr. 31
[108] Công Giáo và Dân Tộc, Số đặc biệt (từ số 559 đến
562) tháng 4. 1986, tr. 33.
[109] Công Giáo và Dân Tộc, Số đặc biệt (từ số 559 đến
562) tháng 4. 1986, tr. 34.
[110] Các tỉnh phía Nam (gọi là Nam Kỳ) lúc bấy giờ là
thuộc địa của Pháp, đặt dưới sự cai trị trực tiếp của
Pháp, nên có thể nói người VN bấy giờ «sống như không có
quê hương», theo lời ĐC Bình.
[111] Báo CG và DT ghi chú: Đó là các linh mục Đậu Quang
Lĩnh, Nguyễn Thần Đồng, Nguyễn Văn Tường, địa phận Vinh.
(Xin thêm: địa phận Vinh lúc bấy giờ bao gồm các tỉnh
nằm dưới quyền của triều đình nhà Nguyễn bị Pháp bảo hộ
, nên Tây đày các ngài vào xứ thuộc địa Pháp cho chắc
ăn.)
[112] Ám chỉ đến tình hình biên giới giáp với Cam Bốt bị
thường xuyên xâm phạm…
[113] Tham luận tại Đại Hội Giám Mục Thế Giới 1977,
trong Công Giáo và Dân Tộc, Số đặc biệt (từ số 559 đến
562) tháng 4. 1986, tr. 30 và 31.
[114] Hiến chế Vui mừng và Hy vọng (Gaudium et Spes), số
21,6 nói: «Mọi người, có tín ngưỡng hay không tín
ngưỡng, đều phải ra sức xây dựng đúng đắn thế giới này,
trong đó họ chung sống với nhau: hẳn nhiên điều này chỉ
có thể thực hiện được bằng một cuộc đối thoại chân thành
và cẩn trọng.», Trần Ngọc Báu dịch.
[115] HGPCGVN tr. 251 tt.
[116] HGPCGVN tr. 255 tt.
[117] Xem ghi chú số 114 của bài này thì sẽ đọc được lời
dịch rõ nghĩa hơn.
[118] Giáo Luật số 381 và 287 qui định Giám mục sở tại
có quyền định đoạt đường hướng mục vụ xét thấy phù hợp
với hoàn cảnh cụ thể của Dân Chúa trong giáo phận của
mình. Chính vì thế, giám mục có quyền cho phép «chuẩn»
cho linh mục của mình được hoạt động chính trị, (như
tham gia Mặt Trận Tổ Quốc, một tổ chức của chế độ xã hội
chủ nghĩa từ trung ương đến địa phương, hay là làm đại
biểu nhân dân trong Quốc Hội, v.v.) Chính vì thế, ta
thấy có giám mục hành xử kiểu này, và có giám mục hành
xử kiểu khác theo thẩm quyền của mình…
[119] MV 40-43 là viết tắt Hiến chế Vui mừng và Hy vọng
(Gaudium et Spes), số 40 đến 43.
[120] TĐ 10 là viết tắt Sắc lệnh về hoạt động truyền
giáo của Giáo hội (Ad Gentes), số 10.
[121] TL 44-45 là : Hiến chế tín lý về Giáo hội (Lumen
Gentium) số 44-45.
[122] HGPCGVN tr. 275 tt.
[123] Đức Gioan Phaolô 2 lên ngôi Giáo Hoàng năm 1978
với lời nhắn gởi đến mọi người trên thế giới và nhân dân
Ba Lan: «Đừng sợ!», đã về thăm Quê hương Ba Lan ngay năm
1979, và đã làm bừng lên sức canh tân của Phúc Âm giữa
lòng dân tộc Ba Lan. Ngài là mẫu gương sống động của
đường hướng «hòa nhập văn hóa», đường hướng này sẽ giải
thoát dân tộc Ba Lan khỏi ách độc tài của chế độ Cộng
Sản Ba Lan.
[124] TĐ 5 : là Sắc lệnh về hoạt động truyền giáo của
Giáo hội (Ad Gentes), số 5.
[125] Chính quyền Cách mạng lúc bấy giờ đặc biệt lo lắng
về vấn đề phá rối an ninh, có thể đến từ phía Mỹ-Ngụy,
nhưng nặng nề hơn là từ phía Trung Cộng qua ngã
Campuchia, đưa đến cuộc hành quân chinh phạt nước này
giữa năm 1978 và cuộc chinh phạt phản công của Trung
Cộng tràn qua biên giới phía Bắc đầu năm 1979. Ở miền
Nam VN, sau những chuyện phạm pháp lẻ tẻ mà Nhà nước cứ
nghi có sự bao che của hàng giáo phẩm công giáo, như vụ
nhà thờ Vinh Sơn tháng 2.1976 và vụ âm mưu lãng mạn của
Lm Nguyễn Văn Vàng vào đầu năm 1978, thì liền sau đó Nhà
nước thừa thắng xông lên lấy cớ an ninh để đóng cửa và
tịch thu 5 Dòng tu ở Thủ Đức tháng 2.1978. Hành động đàn
áp và răn đe của Chính quyền không làm sờn lòng các Giám
mục VN. Thư mục vụ 1980 vẫn nhất mực «sống Phúc Âm giữa
lòng dân tộc» và «bảo vệ và xây dựng Tổ quốc»
[126] Kh 21, 1: viết tắt của sách Khải Huyền số 21, câu
1.
[127] TL 17, 1: là Hiến chế Tín lý về Giáo hội (Lumen
Gentium) số 17, đoạn 1.
[128] TL 31: là Hiến chế Tín lý về Giáo hội (Lumen
Gentium) số 31. -- Còn MV 43 : là Hiến chế Mục vụ về
Giáo hội (Gaudium et Spes) số 43
[129] LBTM 60 : là Tông huấn của Đức Phaolô VI về việc
«Loan báo Tin mừng» (Evangelii Nuntiandi, ngày
08.12.1975) số 60.-- Còn TL 44: là Hiến chế Tín lý về
Giáo hội (Lumen Gentium) số 44.
[130] LM 15 : là Sắc lệnh về chức vị và đời sống các
linh mục (Presbyterorum Ordinis) số 15.
[131] Người viết, trong khi là nhà báo ở Saigon dưới chế
độ XHCN, đã được tham dự cùng với anh em đồng nghiệp
những khóa học tập thuyết Mác-Lê do các tay chuyên
nghiệp giảng dạy đến từ Ban Tuyên Huấn Trung Ương (Hà
Nội). Thú thật, người viết thấy những tay lý thuyết gia
đầu xỏ này không có gì đáng để dạy, mà trò cũng không có
gì đáng để học, bởi vì giáo trình về Duy vật biện chứng
và Duy vật sử quan của các ông thầy này chỉ là một mớ
bài bản vỡ lòng khô cứng, giáo điều, vô nghĩa, mà những
cựu sinh viên Ban Triết Saigon trước 1975 so với những
điều họ được biết thì cũng chẳng có gì đáng gọi là học
thuyết để học cả… Từ đó đến nay, người viết không buồn
phí công bàn góp… và để mặc cho những người Mácxít đấu
láo và mổ xẻ với nhau trên cái xác chết khô này…
[132] Còn thiếu các văn kiện từ 1995 trở về sau, tuy
nhiên đã có các bài khác trong Tuyển Tập này trích dẫn.
[133] Người viết, khi mới đặt chân đến Thụy Sĩ năm 1984,
đã được bà con công giáo nơi đây coi như người không có
đạo (cho dù có đi nhà thờ), vì đã nói có quen thân với
các LM Chân Tín, Nguyễn Ngọc Lan, Huỳnh Công Minh,
Trương Bá Cần, v.v. Câu hỏi đầu tiên trong cuộc họp mặt
bỏ túi với các giới chức công giáo mà người viết được
mời tới là câu : « Ông có phải là người công giáo không
? »
[134] Xin xem, chẳng hạn, những bài xã luận của Lm Chân
Tín, Chủ nhiệm báo Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp từ tháng 10.1961
đến tháng 5.1969, được thu thập chọn lọc và in lại dưới
nhan dề «Luồng gió mới», Tin Paris, 2000.
[135] Xin xem các bài khác trong Tuyển Tập này, như bài
của Gs Đỗ Mạnh Tri, nhà văn Trần Phong Vũ, nhà báo Lê
Thiên, v.v. Theo người viết, ĐC Điền chết trong nỗi niềm
đau khổ vô bờ, vì như cảm thấy mình bị hiểu lầm, bị bỏ
rơi. Có Chúa hiểu cho Ngài và là nguồn an ủi vô biên của
Ngài.
[136] Trường kỳ và có hệ thống hơn cả là nhóm « Công
Giáo và Dân Tộc ».
[137] Giáo Luật 1983, điều 287 : «1- Các giáo sĩ sẽ
chuyên cần giữ gìn luôn luôn và tối đa nếp sống hòa bình
và hòa hợp giữa mọi người, dựa trên công lý. 2- Các ngài
sẽ không được tham dự tích cực vào các đảng phái chính
trị, cũng như trong việc điều hành các tổ chức nghiệp
đoàn, trừ trường hợp phải bênh vực những quyền hạn của
Giáo Hội hoặc sự thăng tiến công ích mà Đấng Bản quyền
giáo phận xét thấy cần.
[138] Một giáo dân, từng hoạt động sát cánh với Đức HY
Nguyễn Văn Thuận khi Ngài còn làm Giám mục ở Nha Trang
trước 1975, có xác nhận với người viết là Đức HY đã khóc
với ông khi nói rằng CS hành hạ thân xác Ngài ghê gớm
như thế, nhưng so ra không thấm vào đâu với những lời
phê phán của người tín hữu công giáo (ngầm hiểu có cả
giáo phẩm) làm Ngài đau khổ vô cùng, chỉ vì Ngài không
đứng chung với lập trường… «chân lý chống cộng» của họ…
Người viết cũng được biết qua một người bạn ở VN rằng ĐC
Lâm rất đau khổ và «chết héo» vì những lời
bà con công giáo đả kích Ngài…
[139] Xem L’Église et la Paix- Vingt-cinq ans de
messages pontíficaux pour la paix, Centurion, 1993.
[140] Trích trong Phần 2.8 trong bài này.
[141] Những tựa bài xã luận của Gs Lý Chánh Trung, trong
«Đối Diện với Chiến Tranh», NXB Trẻ 2000.
[142] Xem Đối Diện, số 1, tháng 7.1969.
[143] Nguyệt san Diễn Đàn Giáo Dân, số 42 tháng 5 năm
2005, tr. 50-51.
[144] Xem Nhận định chung của Hội Đồng Giám mục Việt Nam
về Nghị định số 26/1999/NĐ-CP (l6-10-1999) - Thư ngỏ của
Hội đồng Giám mục Việt Nam gởi các cơ quan lập pháp của
Nhà Nước Việt Nam (l2-l0-2002) - Thư của Đức TGM Phạm
Minh Mẫn gởi Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thành phố HCM
(22-2-2003) - ĐGM Huỳnh Văn Nghi tố cáo Cộng Sản Việt
Nam vô lý về chủ quyền đất đai của Giáo Hội (01-12-2003)
- Phỏng vấn ĐHY Phạm Minh Mẫn về mối tương quan Giáo
hội-Nhà nước Cộng Sản Việt Nam (4-8-2004) - ĐGM Nguyễn
Văn Hòa: Một cái nhìn tổng quát về Giáo hội Công giáo
Việt Nam (23-08-04) - Bản nhận định của Hội Đồng Giám
Mục Việt Nam về Pháp lệnh Tín ngưỡng Tôn giáo
(30-9-2004) - ĐGM Nguyễn Như Thể: Lại thêm những giới
hạn về tự do tôn giáo tại Việt Nam (8-11-2004)
Trần Ngọc Báu
(Thuỵ Sĩ)
Tác giả:
Trần Ngọc Báu
|